Tạp chí Tài chính kỳ 2 số tháng 6-2016 - page 36

34
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
ngành rất khác nhau, cho nên khó xây dựng và ứng
dụng hệ thống tỷ số bình quân ngành có ý nghĩa tại
các công ty này. Do đó, phân tích báo cáo tài chính
thường có ý nghĩa nhất trong các công ty nhỏ và
không có hoạt động đa ngành.
Ba là,
báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của
Việt Nam không tách bạch rõ ràng các khoản chi
phí tiền thuê và lãi vay, nên ít khi các nhà phân
tích sử dụng tỷ số đo lường khả năng thanh toán
lãi vay và khả năng trả nợ. Trừ khi, chỉ số này đóng
một vai trò quan trọng với ngân hàng và chủ nợ
nên họ phải tìm cách tách phần chi phí này từ chi
phí hoạt động tài chính. Bên cạnh đó, trên góc độ
nhà đầu tư và các cổ đông, chỉ số mức sinh lời trên
vốn chủ sở hữu là rất đáng quan tâm, khi quyết
định đầu tư. Tuy nhiên, do báo cáo kết quả kinh
doanh chỉ dừng lại ở chỗ báo cáo lợi nhuận ròng là
bao nhiêu, trong khi thực tế không phải tất cả các
khoản lợi nhuận ròng đều thuộc về cổ đông (do
công ty phải trích lập một số quỹ khác), vì vậy, chỉ
tiêu lợi nhuận ròng dễ gây sự sai lệch kỳ vọng cho
cổ đông và nhà đầu tư.
Bốn là,
dù đã có nhiều nỗ lực song mức độ tin
cậy của số liệu trên báo cáo tài chính không cao.
Phân tích báo cáo tài chính tại các DN Việt Nam ít
khi được tiến hành vì mục đích đánh giá và kiểm
soát bởi các nhà quản lý trong nội bộ công ty, mà
chủ yếu lại do ngân hàng hay công ty chứng khoán
(tức là các đối tác bên ngoài DN) thực hiện. Bên
cạnh đó, kể cả các báo cáo tài chính đã qua kiểm
toán, thì kết quả phân tích và đánh giá tình hình
tài chính DN thông qua phân tích báo cáo tài chính
thường chỉ có giá trị tham khảo, hơn là phản ánh
đúng thực trạng. Nói cách khác, để phục vụ tốt
nhu cầu quản trị DN, thì cần phải kết hợp thêm
nhiều loại báo cáo nữa.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Ngọc Quang, 2011, Phân tích Báo cáo tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội;
2. Công ty Luật Minh Khuê, 2015, Những vấn đề cơ bản phân tích báo cáo
tài chính;
3. ThS. Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2014, Kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính phục
vụ quản trị tài chính doanh nghiệp, Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp;
4. Một số website: vacpa.org.vn, taikhoanketoan.com, webketoan.com.
Mặc dù hệ thống báo cáo tài chính thể hiện “bức
tranh” tổng quát về tình trạng tài chính, kết quả
hoạt động và dòng tiền lưu chuyển sau mỗi kỳ hoạt
động của DN, song nếu chỉ xem xét từng con số đơn
lẻ trên báo cáo tài chính, thì sẽ khó nhìn nhận được
toàn diện và sâu sắc về “bức tranh” này. Do vậy,
phân tích báo cáo tài chính không chỉ đòi hỏi vốn
kiến thức, hiểu biết nhất định về tài chính - kế toán,
về quản trị kinh doanh, về kinh tế vi mô và vĩ mô
mà còn yêu cầu những kỹ năng mang tính hệ thống
và logic hết sức đặc thù.
Những thách thức tiềm ẩn
Hiện nay, hầu hết DN niêm yết và DNNN đều
quan tâm đến phân tích báo cáo tài chính nhằm
phục vụ việc điều hành DN cũng như minh bạch
hóa, để thu hút các nhà đầu tư. Tuy nhiên, do đa
phần DN Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, khiến
không đủ nguồn lực tài chính lẫn nhân lực để thực
hiện phân tích báo cáo tài chính. Kể cả các DN có
tiến hành phân tích báo cáo tài chính hiện cũng rất
sơ sài, chủ yếu do bộ phận kế toán thực hiện, mà
không có một bộ phận chuyên trách đảm nhiệm.
Bên cạnh đó, việc phân tích báo cáo tài chính của
các DN Việt Nam còn đối mặt với nhiều thách thức
tiềm ẩn khác, có thể gây ra tác động làm sai lệch
kết quả phân tích:
Một là,
lạm phát có thể ảnh hưởng và làm sai lệch
thông tin tài chính được ghi nhận trên các báo cáo
tài chính, khiến cho việc tính toán và phân tích trở
nên sai lệch. Chẳng hạn, trong những năm qua dù
kinh tế vĩ mô nước ta ổn định, song lạm phát vẫn rất
khó dự báo và thường ở mức cao. Theo các chuyên
gia kinh tế, lạm phát có thể sẽ gây ảnh hưởng đến
giá trị của dòng tiền, làm cho dòng tiền ở các năm
khác nhau, sẽ có một thời giá tiền tệ khác nhau. Điều
này làm cho việc so sánh, phân tích số liệu giữa các
năm có sự sai lệch.
Hai là,
phân tích báo cáo tài chính DN Việt Nam
gặp một trở ngại lớn là không có các dữ liệu bình
quân ngành để so sánh. Điều này, làm giảm đi
phần nào ý nghĩa trong việc đánh giá tình hình
tài chính công ty. Ngoài ra, các yếu tố thời vụ
cũng làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của
công ty và khiến cho các tỷ số tài chính có khuynh
hướng thay đổi bất thường. Chẳng hạn, vào mùa
vụ hàng tồn kho tăng lên cao hơn bình thường, nên
nếu sử dụng tỷ số vòng quay hàng tồn kho tăng
lên cao hơn bình thường, nếu sử dụng tỷ số vòng
quay hàng tồn kho, sẽ thấy công ty có vẻ hoạt động
kém hiệu quả. Ngoài ra, có nhiều công ty quy mô
rất lớn và hoạt động đa ngành, thậm chí là những
Trong các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính,
kỹ thuật phân tích tỷ số tài chính hiện được sử
dụng nhiều nhất ở Việt Nam. Phân tích các tỷ
số tài chính liên quan đến việc xác định và sử
dụng các tỷ số tài chính, để đo lường và đánh
giá tình hình hoạt động tài chính của DN.
1...,26,27,28,29,30,31,32,33,34,35 37,38,39,40,41,42,43,44,45,46,...126
Powered by FlippingBook