Tạp chí Tài chính kỳ 2 số tháng 6-2016 - page 27

TÀI CHÍNH -
Tháng 6/2016
25
sản xuất kinh doanh. Dù lãi suất đã giảm, nhưng
việc tiếp cận mức lãi suất thấp còn khó khăn, phần
lớn DN vẫn phải chi trả lãi suất cao hơn mức niêm
yết của các ngân hàng. Ngay cả khi tiếp cận được
vốn vay lãi suất cao, thời gian vay vốn ngắn khiến
các DN khó quay vòng. Theo báo cáo của Hiệp hội
DNNVV Việt Nam, năm 2015 chỉ có khoảng gần
40% DN vay vốn được từ các ngân hàng, nhưng
phần lớn ở mức lãi suất cao.
Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn
Tính đến hết năm 2015 đã có 171 chứng thư còn
hiệu lực với giá trị vốn cam kết bảo lãnh 2.641 tỷ
đồng, dư nợ vay NHTM 1.729 tỷ đồng. Lũy kế số tiền
đã trả cho NHTM 168 tỷ đồng và dư nợ bắt buộc 162
tỷ đồng. Qua hơn 5 năm thực hiện cho thấy, mặc dù
DN có nhu cầu lớn bảo lãnh tín dụng nhưng Ngân
hàng Phát triển Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn
trong việc triển khai nghiệp vụ này. Điển hình như:
Thứ nhất,
quy mô của quỹ dự phòng rất nhỏ và
đang giảm dần. Sau 05 năm hoạt động, quỹ đã chi
hết 84% số vốn được cấp ban đầu và mặc dù đã
được bổ sung nhưng số vốn hiện nay chưa bằng
một nửa số vốn ban đầu. Việc thu hồi nợ bắt buộc
rất thấp (31,2% nợ phải thu) do không xử lý được tài
sản đảm bảo. Nguồn vốn dự phòng được cấp giảm
đi nhanh chóng, do các quy định còn thiếu chi tiết
và chặt chẽ, chưa điều chỉnh đầy đủ các trường hợp
nảy sinh trong thực tế nên việc triển khai còn nhiều
vướng mắc.
Chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa hiện nay
Tín dụng ngân hàng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong những năm qua, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đã thực hiện các biện pháp điều chỉnh
chính sách tiền tệ để kiểm soát hoạt động của các
tổ chức tín dụng theo hướng tập trung phục vụ các
nhu cầu vốn đối với các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu,
nông nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV).
Lãi suất huy động đã giảm liên tục 5 lần từ năm
2013, đã đi vào ổn định và hiện nay ở mức tương
đối thấp (6%/năm). Lãi suất cho vay giảm khoảng
6- 8% so với năm 2012, trong đó tập trung chủ yếu
đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu,
DNNVV, công nghiệp hỗ trợ ở mức 11-13%, ở các
lĩnh vực khác 14-17%/năm.
Theo Hiệp hội DNNVV Việt Nam, đến tháng
9/2015, tỷ trọng dư nợ khu vực DNNVV ở mức
987.808 tỷ đồng trên tổng số dư nợ 3,9 triệu tỷ đồng,
chiếm 27% tổng dư nợ. Tốc độ tăng trưởng khu vực
DNNVV đạt mức 2,2% so với năm 2014 với gần 90%
vay bằng nội tệ, tỷ lệ nợ xấu tăng lên 5% và vẫn có
xu hướng tăng. Tỷ lệ DNNVV được bảo lãnh cho
vay rất thấp, tỷ lệ rủi ro về bảo lãnh cao, tỷ lệ từ
chối trả thay cũng cao, bình quân của hệ thống ngân
hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay: Tỷ lệ
rủi ro bảo lãnh chiếm 26,9% và tỷ lệ từ chối trả thay
từ ngân hàng chiếm hơn 18,6%.
Tuy nhiên, thực tế DNNVV vẫn rất thiếu vốn
CHÍNHSÁCHTÀICHÍNHHỖTRỢDOANHNGHIỆPNHỎVÀVỪA:
THỰC TRẠNGVÀMỘT SỐ KIẾNNGHỊ
NGUYỄN THỊ QUỲNH, NGUYỄN THỊ DUNG, NGUYỄN THANH TÚ
- Đại học Sao Đỏ
Trong bối cảnh khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu, để hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa duy trì sản
xuất và tạo công ăn việc làm cho người lao động, Việt Nam đã kịp thời ban hành nhiều cơ chế về chính sách
tài chính hỗ trợ cho khu vực này như: Quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, cung cấp tín dụng,
Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, mặt bằng sản xuất, phát triển nguồn nhân lực…Tuy nhiên,
chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả cho
doanh nghiệp. Bài viết phân tích thực trạng những chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,
từ đó đưa ra các kiến nghị về chính sách tài chính hỗ trợ loại hình doanh nghiệp này đạt được hiệu quả
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ khóa: Tài chính, tín dụng, doanh nghiệp, hỗ trợ, phát triển.
1...,17,18,19,20,21,22,23,24,25,26 28,29,30,31,32,33,34,35,36,37,...126
Powered by FlippingBook