K2 T4 - page 62

61
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
suất sử dụng vốn lưu động, hiệu suất sử dụng tài sản
cố định, vòng quay của tài sản, vòng quay nợ phải
thu, thời gian nắm giữ hàng tồn kho …); đo lường
hiệu quả quản lý về hoạt động của công ty như công
suất tài sản, giá bán trung bình, doanh thu/kỳ…
Nhóm thứ ba,
hiệu quả trong thanh toán: Nhóm
chỉ tiêu phân tích khả năng thanh toán ngắn hạn (khả
năng thanh toán tức thời, khả năng thanh toán nhanh,
khả năng thanh toán hiện hành…), nhóm chỉ tiêu
phân tích khả năng thanh toán các khoản nợ dài hạn.
Nhóm thứ tư,
hiệu quả hoạt động và đầu tư của
DN: Đo lường hiệu suất tổng thể về khả năng của
DN để tạo ra thu nhập, thu nhập/ chi phí của nhà
đầu tư, lợi nhuận/doanh thu và các khoản đầu tư.
Nhóm thứ năm,
hiệu quả hoạt động trong ngành:
Tốc độ tăng trưởng thị phần, tổng giá trị xuất nhập
khẩu trong ngành, giá trị sản xuất/tổng giá trị sản
xuất của ngành…
Tựu chung, việc vận dụng các công cụ vào phân
tích hiệu quả hoạt động phải linh hoạt theo đặc
điểm của lĩnh vực kinh doanh và điều kiện của
DN. Hiện nay, các DN có quy mô lớn thì thường
có xu hướng tập trung đầu tư cho công tác đánh
giá hiệu quả và xây dựng chiến lược. Các bước
tiến hành phân tích bao gồm các giai đoạn chuẩn
bị phân tích, tiến hành phân tích và kết thúc ra báo
cáo phải tuân thủ chặt chẽ và sử dụng số liệu kế
toán chính xác, phù hợp.
Đối với hầu hết các DN có quymô vừa và nhỏ, công
tác phân tích hiệu quả hoạt động hiện nay ít được chú
trọng, chẳng hạn như không có bộ phận phân tích báo
cáo riêng, chỉ thực hiện tính toán một số nhóm chỉ tiêu
như khả năng thanh toán, khả năng sinh lời. Vì vậy,
những công trình nghiên cứu thực nghiệm về phân
tích hiệu quả hoạt động không chỉ giúp cho các DN
trên thế giới nói chung và DN Việt Nam nói riêng xây
dựng, vận dụng hệ thống chỉ tiêu tài chính phù hợp,
toàn diện; đồng thời, nhận diện được vị trí, tầm nhìn
của mình trong hiện tại và tương lai.
Tài liệu tham khảo:
1. A.J, Singh; Raymond, S.Schmidgall. (2002), “Analysis of financial ratios
commonly used by US lodging financial executives”, Journal of Leisure
Property, Aug 2002, 2, page. 201 – 213;
2. Epstein, M.J và Manzoni, J.F. (2004), “Performance measurement and
management control: superior organizational performance”, Elsevier Ltd;
3. Karl, M.Z. (1991), “Proposed Financial Ratios for Use in Analysis of Municipal
Annual Financial Reports”, The Government Accountants Journal, 40.3, page 79;
4. Palepu K.G; Healy P.M; Bernard V.L. (1999), “Business analysis valuation
using financial statements”, USA South – Wester Educational Publishing;
5. Walsh C. (2006), “Key management rations: The clearest guide to the critical
numbers that drive your business”, Great Britain.
quan tích cực đáng kể đến hiệu suất DN. Đòn bẩy
tài chính có sự tương quan tiêu cực đáng kể đến
hiệu suất DN, nghĩa là vay nợ đến một mức độ nhất
định sẽ gây ức chế hoạt động của DN. Sự tồn tại của
vốn liên doanh sẽ tăng tác động tiêu cực của đòn
bẩy đến hiệu suất. Vốn liên doanh được ưu tiên khi
đưa ra quyết định tài chính nhằm thúc đẩy sự phát
triển nhanh chóng của các DN, bằng cách đó DN
cũng có thêm kinh nghiệm vốn và quản lý. Trên cơ
sở đó, nhóm tác giả khuyến nghị DN nên kiểm soát
quy mô nợ, không làm tăng nguy cơ gây ra bởi nợ.
Đánh giá thực tiễn và vấn đề đặt ra
Nhìn chung, các nghiên cứu trên thế giới đã vận
dụng lý thuyết về hiệu quả nhìn nhận ở góc độ so
sánh tuyệt đối và tương đối giữa đồng vốn DN bỏ ra
với tổng thu nhập (lợi ích) sinh ra từ quá trình hoạt
động trong một thời kỳ nhất định. Việc tính toán
hiệu quả sử dụng nguồn lực giúp DN nhận thức rõ
kết quả khai thác hiện tại so với khả năng đáp ứng
tối đa của mình, cũng như tìm ra nguyên nhân làm
ảnh hưởng tới hiệu quả đầu ra. Tuy nhiên, cần xem
xét đánh giá hiệu quả hoạt động DN cùng với các
chỉ tiêu khác như: Môi trường kinh doanh, đối thủ
cạnh tranh, thị phần, nhà cung cấp, sự hài lòng của
khác hàng, quy trình hoạt động nội bộ… Tất cả các
chỉ tiêu trên sẽ cho phép DN phân tích được vị trí,
tầm nhìn của mình trong hiện tại và tương lai.
Thực tế, khi phân tích hiệu quả hoạt động hiện
nay các DN chỉ tập trung vào việc xem xét các chỉ
tiêu tài chính phản ánh góc độ kinh tế. Các chỉ tiêu
sử dụng không đầy đủ, cho nên khó có thể đánh giá
được các khía cạnh hoạt động kinh tế của DN. Do
vậy, các biện pháp tài chính khi vận dụng DN nên
phân loại thành các nhóm sau:
Nhóm thứ nhất,
hiệu quả sử dụng chi phí: Nhóm
chỉ tiêu phân tích khả năng sử dụng chi phí như
hiệu quả sử dụng lao động, chi phí nguyên vật liệu,
chi phí nhân công, chi phí sản xuất chung, giá thành/
đơn vị sản phẩm, chi phí gián tiếp/đơn vị sản phẩm.
Nhóm thứ hai,
hiệu suất và hiệu năng hoạt động:
Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng, quản lý
tài sản của DN (hiệu suất sử dụng tổng tài sản, hiệu
Cần xem xét đánh giá hiệu quả hoạt động DN
cùng với các chỉ tiêu khác như: Môi trường kinh
doanh, đối thủ cạnh tranh, thị phần, nhà cung
cấp, sự hài lòng của khác hàng, quy trình hoạt
động nội bộ…Tất cả các chỉ tiêu trên cho phép
DN phân tích được vị trí, tầm nhìn của mình
trong hiện tại và tương lai.
1...,52,53,54,55,56,57,58,59,60,61 63,64,65,66,67,68,69,70,71,72,...118
Powered by FlippingBook