So ky 2 thang 6 - page 22

20
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VĨ MÔ
công bố quốc tế và trong nước thành giờ chuẩn giảm
trừ giảng dạy. Đồng thời, cần có cơ chế đãi ngộ phải
gắn liền cơ chế cạnh tranh để cán bộ KHCN không
ngừng hoàn thiện, đổi mới. Đặc biệt, việc tuyển dụng
và đề bạt các chức vụ lãnh đạo chuyên môn, trưởng
nhóm nghiên cứu ưu tiên dựa vào thành tích khoa
học, trong đó các công bố trong nước và quốc tế có
giá trị là tiêu chí đầu tiên được lựa chọn xem xét.
Ba là,
thành lập các nhóm nghiên cứu trong các
Khoa, Bộ môn và hổ trợ kinh phí, điều kiện vật chất
cho hoạt động của các nhóm nghiên cứu. Ưu tiên
giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ KHCN trọng điểm
cho các nhóm nghiên cứu xuất sắc; Hỗ trợ kinh phí
tổ chức hoặc tham gia các hội thảo, hội nghị khoa
học trong nước và quốc tế của các nhóm nghiên cứu
thuộc lĩnh vực chuyên môn của họ. Khuyến khích và
hổ trợ các nhóm nghiên cứu triển khai các công bố
quốc tế và trong nước, trong đó chú trọng các công
bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín...
Bốn là,
tăng cường triển khai các chính sách khuyến
khích và hỗ trợ giảng viên, cán bộ khoa học trẻ nâng
cao năng lực nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ. Đồng thời, tạo mọi điều kiện để giảng
viên, cán bộ khoa học trẻ tham gia nghiên cứu khoa
học nhằm phát huy, phát triển định hướng chuyên
môn nghiên cứu; Thường xuyên tạo điều kiện cho
cán bộ khoa học trẻ tiếp xúc, học tập với các chuyên
gia đầu ngành trong nước và quốc tế về phương
pháp nghiên cứu và các yêu cầu, điều kiện để có thể
công bố bài báo khoa học trong các danh mục uy tín.
Năm là,
triển khai tốt công tác quy hoạch, tuyển
dụng, sử dụng số lượng cán bộ khoa học hợp lý,
hiệu quả trong từng giai đoạn phát triển của cơ sở
giáo dục. Trong đó, việc tuyển dụng cán bộ khoa
học nên chú trọng thành tích và năng lực nghiên
cứu khoa học nhằm tránh các nhược điểm của giáo
dục đại học ở Việt Nam trong việc đào tạo ra hàng
loạt cử nhân loại khá, loại giỏi nhưng không có khả
năng phát triển khoa học.
Tài liệu tham khảo
1. Chính phủ, Nghị định số 99/2014/NĐ-CP ngày 25/10/2014 về quy định việc
đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động KHCN trong các cơ sở
giáo dục đại học;
2. Hoàng Mạnh Thắng, (2013), So sánh số lượng bài báo đăng trên tạp chí
khoa học quốc tế của Việt Nam và các nước trong khu vực trong 5 năm gần
đây (2008 – 2012),
;
3. Phạm Chí Trung, (2013), Đổi mới cơ chế hoạt động của các tổ chức nghiên
cứu và phát triển ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội;
4. Phạm Duy Hiển, (2013), So sánh năng lực nghiên cứu khoa học của 11 nước
Đông Á dựa trên các công bố quốc tế và bài học rút ra cho Việt Nam, www.
hdcdgsnn.gov.vn.
tổng lượng bài của Việt Nam chỉ bằng 1/30 Australia,
1/6 New Zealand, 1/58 Nhật Bản, 1/256 Mỹ nhưng tỷ
lệ tăng trưởng bình quân gấp 2,2 lần Australia, 2,7
lần New Zealand và 7,3 lần Mỹ. Điều này cho thấy,
các nỗ lực đáng ghi nhận của đội ngũ KHCN trong
việc công bố quốc tế. Nếu xét riêng trong lĩnh vực
khoa học xã hội và nhân văn, số lượng bài báo công
bố quốc tế của Việt Nam có nhiều bước tiến trong
giai đoạn 2008 – 2012 với 665 bài trong danh mục
SSCI (Social Science Citation Index).
Tuy nhiên, so sánh với các nước Đông Nam Á,
Việt Nam chỉ xếp thứ 3 về tỷ lệ tăng trưởng và
đứng thứ 5 về số lượng bài sau Singapore (5.791),
Malaysia (2.436), Thái Lan (2.018) và Philippines
(680). Nếu so sánh với các nước phát triển, tổng
lượng bài của Việt Nam chỉ bằng 1/58 Australia,
1/22 New Zealand, 1/28 Nhật Bản và 1/473 Mỹ,
đồng thời tỷ lệ tăng trưởng kém hơn Australia và
New Zealand 4,2 lần Nhật Bản là 1,2 lần, cao hơn
Mỹ 4,1 lần. Nhìn chung, trong lĩnh vực khoa học xã
hội nhân văn, lượng bài công bố quốc tế của Việt
Nam còn nhiều khiêm tốn, khoảng 1/10 tổng lượng
bài và lĩnh vực đã tham gia.
Thực trạng trên cho thấy bức tranh tổng thể về
công bố quốc tế của Việt Nam giai đoạn 1991 – 2012
với điểm nhấn về sự gia tăng liên tục các bài báo
trong danh mục ISI. Tuy nhiên, phần lớn công bố
quốc tế cho đến nay thuộc lĩnh vực khoa học tự
nhiên, nhất là toán học và vật lý.
Một số giải pháp, đề xuất
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng
như hoạt động KHCN tại Việt Nam nói chung và
trong các cơ sở giáo dục đại học nói riêng, phát huy
những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn
chế trên cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
Một là,
rà soát, đánh giá chính sách đào tạo, sử
dụng, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội
ngũ cán bộ KHCN để kịp thời chỉnh sửa, khắc phục
các thiếu sót trong việc đầu tư phát triển nguồn
nhân lực KHCN. Xây dựng và triển khai các cơ chế,
chính sách tạo môi trường thuận lợi và điều kiện vật
chất để cán bộ khoa học phát huy tài năng cũng như
hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng
tạo mà họ đóng góp.
Hai là,
tăng cường khuyến khích giảng viên
nghiên cứu khoa học bằng các ưu đãi về thu nhập
từ hợp đồng nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ; Thưởng tiền tương xứng với giá trị lao
động trong việc công bố bài báo trên tạp chí khoa
học quốc tế uy tín trong danh mục ISI, SCI, SCIE; Hỗ
trợ phí đăng ký bảo hộ quyền tác giả; Quy đổi các
1...,12,13,14,15,16,17,18,19,20,21 23,24,25,26,27,28,29,30,31,32,...120
Powered by FlippingBook