TÀI CHÍNH -
Tháng 10/2015
39
bảo bố trí nguồn lực cho việc thực hiện các nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội quan trọng của đất
nước, tăng chi cho công tác đảm bảo an sinh xã
hội và xóa đói, giảm nghèo.
Đồng thời, cải cách về cơ chế, chính sách quản
lý NSNN đã góp phần củng cố kỷ cương, kỷ luật
tài chính; thực hiện phân cấp ngân sách ổn định,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và điều
hành ngân sách của các cấp, nâng cao tính chủ
động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc quản lý và sử dụng NSNN. Chế
độ công khai tài chính được cải thiện và triển khai
thực hiện ở các cấp ngân sách. Quy mô chi NSNN
bình quân giai đoạn 2011 – 2015 ước đạt 28,%
GDP, tốc độ tăng chi bình quân đạt 16,1%.
NSNN cũng đã được cơ cấu lại để tăng chi cho
giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế,
văn hóa thông tin, bảo vệ môi trường, đáp ứng
được các mục tiêu đề ra theo các Nghị quyết của
Đảng và Quốc hội. Nguồn vốn NSNN đã được
tập trung ưu tiên cho các dự án kết cấu hạ tầng,
giao thông, thủy lợi, các chương trình mục tiêu
quốc gia quan trọng. Chi thường xuyên giai đoạn
2011-2015 ở mức bình quân 65,7% tổng chi NSNN,
tăng 10% so với giai đoạn 2006 – 2010 (bình quân
55%). Việc thực hiện điều chỉnh tiền lương, chế
độ phụ cấp công vụ và ban hành nhiều chính sách
an sinh xã hội đã tiếp tục tác động đến cơ cấu chi
NSNN giai đoạn 2011 – 2015, đưa tỷ trọng chi cho
con người trong tổng chi thường xuyên tăng thêm
6% so với giai đoạn 2006 – 2010 từ mức bình quân
62,2% lên mức 68,2%...
Tốc độ tăng chi đầu tư phát triển tuy có xu
hướng giảm trong những năm gần đây do điều
chỉnh chính sách tài khóa, song vẫn chiếm khoảng
19,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2011
– 2015, đảm bảo thực hiện hiệu quả các ưu tiên
đầu tư của nhà nước, tập trung vào các hệ thống
giao thông, thủy lợi quan trọng; đầu tư thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển hạ tầng
khu vực miền núi, Tây Nguyên, vùng khó khăn...
Nhiều chương trình, dự án lớn đã được hoàn
thành, hạ tầng kinh tế - xã hội có bước cải thiện
quan trọng, đã góp phần tăng năng lực của nhiều
ngành kinh tế…
Về cân đối ngân sách nhà nước
Trong bối cảnh kinh tế phát triển không thuận
lợi, tăng trưởng không ổn định, ảnh hưởng đến
thu NSNN cũng như áp lực tăng chi NSNN để
phục hồi và ổn định kinh tế vĩ mô cũng như tăng
khả năng huy động nguồn lực cho đầu tư phát
triển nên những năm qua, Việt Nam đã chủ động
điều hành bội chi NSNN theo hướng linh hoạt,
chấp nhận bội chi cao ở một số thời điểm để có
thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển và hỗ trợ
tổng cầu. Đồng thời, Việt Nam cũng chủ động
thực hiện một số biện pháp để giảm mức bội chi
tăng cao như ưu tiên sử dụng một số khoản tăng
thu để giảm bội chi NSNN… Theo đó, mức bội chi
thực tế thực hiện được giữ ở mức Quốc hội cho
phép, bình quân bội chi NSNN giai đoạn 2011-
2015 đạt 5,1% GDP.
Công tác quản lý nợ công, nợ nước ngoài của
quốc gia đang dần được đổi mới, hệ thống văn
bản pháp lý về quản lý nợ công như ban hành và
tổ chức thực hiện Luật Quản lý nợ công, từng
bước tiếp cận dần với các thông lệ tốt quốc tế, tính
toán và xác định các chỉ tiêu giám sát nợ công, ban
hành quy chế lập, sử dụng và quản lý quỹ tích lũy
trả nợ, xây dựng chương trình quản lý nợ trung
hạn… để đảm bảo nợ trong mức giới hạn an toàn,
giảm thiểu phát sinh nghĩa vụ nợ và nợ rủi ro cao.
Các chỉ số liên quan đến nợ công, nợ nước ngoài
quốc gia vẫn được duy trì trong mức giới hạn an
toàn. Xem xét đánh giá của Ngân hàng Thế giới
và Tổ chức Tiền tệ quốc tế về chất lượng quản lý
nợ công của Việt Nam dựa vào chất lượng chính
sách và thể chế trên cơ sở 5 chỉ tiêu đánh giá “mức
độ rủi ro của nợ nước ngoài” là giá trị hiện tại nợ/
GNI, giá trị hiện tại nợ/xuất khẩu, giá trị hiện tại
nợ/thu NSNN, nghĩa vụ nợ/xuất khẩu, nghĩa vụ
nợ/thu NSNN cho thấy, Việt Nam có chỉ số chất
lượng thể chế và chính sách (CPIA) xếp loại tốt.
Trong giai đoạn qua, tỷ trọng nợ trong nước trong
tổng nợ công đang có xu hướng cao hơn nợ nước
ngoài và tăng từ 43% năm 2010 lên 54,5% năm
2014 góp phần làm giảm rủi ro về tỷ giá và sự phụ
thuộc vào nguồn vốn bên ngoài, góp phần đảm
bảo an ninh tài chính quốc gia.
Khuyến nghị chính sách
Bối cảnh tình hình kinh tế - chính trị trong nước
và thế giới còn nhiều khó khăn và khó lường, kinh
tế châu Âu chưa phục hồi, xung đột địa chính trị
Xét cơ cấu thu theo lĩnh vực, ngành cho thấy,
thu ngân sách nhà nước đã có chuyển biến
theo chiều hướng tích cực với xu hướng tăng
tỷ trọng thu nội địa (phản ánh mức động viên
từ nội bộ nền kinh tế) từ 58% giai đoạn 2006-
2010 lên 67% giai đoạn 2011-2015, đến năm
2015 chiếm 70% tổng thu ngân sách nhà nước.