40
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ở một số khu vực, đặc biệt giá dầu thế giới giảm,
chính sách tiền tệ khó lường của Trung Quốc...
đang đặt ra nhiều thách thức lớn cho Việt Nam
trong điều hành chính sách tài khóa. Hiện nay,
không gian chính sách tài khóa đã chật hẹp, chi
NSNN đã ở mức cao, các chính sách miễn, giảm
thuế đã được thực hiện trên diện rộng, bội chi đã
vượt mục tiêu đề ra, nợ công cũng tiệm cận mức
trần Quốc hội cho phép. Vì vậy, để đạt được các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, thì trong thời
gian tới cần phải dựa vào các chính sách khác để
phát triển bền vững, như: Chính sách tiền tệ, tín
dụng; chính sách điều chỉnh cơ cấu xuất - nhập
khẩu để phát triển nền sản xuất có khả năng cạnh
tranh cao; đồng thời, cần có biện pháp huy động
các nguồn lực của khu vực tư nhân và nguồn tiết
kiệm trong dân cư để phát triển kinh tế. Đối với
chính sách tài khóa, trong thời gian tới cần chú ý
một số vấn đề trọng tâm sau:
Thứ nhất,
tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa
thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, cơ cấu lại các khoản
chi, bao gồm cả chi đầu tư và chi thường xuyên;
không ban hành các chính sách mới làm tăng chi
hoặc giảm thu ngân sách. Bối cảnh nền kinh tế còn
nhiều khó khăn, trong khi những hỗ trợ từ phía
Nhà nước liên quan đến chính sách thuế đã được
mở rộng trong mấy năm qua, việc tiếp tục hỗ trợ
DN thông qua cắt giảm thuế là khó thực hiện. Do
đó, chính sách hỗ trợ nên chuyển sang hướng tạo
thuận lợi cho DN thông qua cải cách thủ tục hành
chính, giúp tiết kiệm chi phí cho việc tuân thủ
chính sách thuế.
Thứ hai,
nghiêm túc thực hiện khuôn khổ chi
tiêu trung hạn và kế hoạch đầu tư công trung hạn
theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Phát huy
kết quả đạt được trong thời gian qua, Bộ Tài chính
cần tiếp tục nâng cao chất lượng công tác dự báo
thu, khắc phục tình trạng chi vượt dự toán. Thực
hiện tốt kỷ luật tài khóa, đảm bảo an ninh, an toàn
tài chính quốc gia.
Thứ ba,
theo dõi chặt chẽ diễn biến giá dầu thế
giới để có các điều chỉnh chính sách thích hợp.
Thực hiện tốt công tác thu ngân sách, đôn đốc công
tác thu nợ, tăng thu nội địa để bù đắp giảm thu
ngân sách từ dầu thô và thu từ xuất - nhập khẩu.
Về trung và dài hạn cần rà soát các chính sách thu,
nghiên cứu ban hành các chính sách thu nội địa
khác, như: thuế tài sản/thuế bất động sản để giảm
sự phụ thuộc của NSNN vào nguồn thu từ dầu,
tăng cường sự bền vững của thu ngân sách.
Thứ tư,
đẩy nhanh việc thực hiện cơ chế tự chủ
đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị
định số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14/02/2015 và Nghị
quyết số 77/NQ-CP, ngày 24/10/2014. Qua đó,
từng bước điều chỉnh cơ chế giá dịch vụ sự nghiệp
công cũng như cơ chế phân bổ ngân sách cho khu
vực sự nghiệp công, tăng cường tính tự chủ của
khu vực này để cơ cấu lại chi NSNN, chuyển từ cơ
chế bao cấp cho đơn vị cung cấp dịch vụ sang hỗ
trợ trực tiếp cho các đối tượng thụ hưởng thuộc
diện chính sách để đảm bảo cơ hội tiếp cận dịch
vụ sự nghiệp công cho người nghèo…
Thứ năm,
đẩy mạnh hợp tác công - tư theo Nghị
định số 15/2015/NĐ-CP, ngày 14/02/2015, thu hút
các nguồn vốn từ khu vực tư nhân đầu tư vào xây
dựng cơ sở vật chất hạ tầng để hỗ trợ xu hướng
giảm; của đầu tư công do thu ngân sách giảm,
đồng thời, chia sẻ gánh nặng về vốn và rủi ro giữa
khu vực công và khu vực tư, nâng cao tính hiệu
quả và chất lượng quản lý, đầu tư và sử dụng các
dự án đầu tư.
Thứ sáu,
xu hướng giảm lãi suất huy động trên
thị trường vốn trong nước và việc nâng cao tín
nhiệm quốc gia trên thị trường vốn quốc tế là điều
kiện thuận lợi cho việc cơ cấu lại danh mục nợ
công theo hướng tăng kỳ hạn và giảm lãi suất trái
phiếu chính phủ, góp phần tăng tính an toàn và
bền vững nợ công.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tài chính (2011-2015), Dự toán và quyết toán ngân sách các năm
2011-2015;
2. Chính phủ (2014). Tờ trình số 423/TTr-CP, ngày 17/10/2014 về dự án
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều tại các luật về thuế, Tài liệu phục vụ
Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XIII;
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Báo cáo kết quả nghiên cứu Đề án Xác
định phạm vi nợ công, trần nợ công an toàn của Việt Nam giai đoạn
2014 – 2020;
4. Báo cáo giám sát số 760/BC-UBTVQH13 ngày 27/10/2014 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội;
5. Mai Thị Thu và cộng sự (2013), Phương thức đối tác công - tư (PPP):
Kinh nghiệm quốc tế và khuôn khổ thể chế tại Việt Nam, Nhà xuất bản
Tri thức;
6. Vũ Nhữ Thăng (2014), Chính sách tài khóa: Những vấn đề đặt ra trong
thời gian tới. Tham luận tại Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân, Hạ Long, 2014.
Thời gianqua,Quốchội, Chínhphủđã thựchiện
nhiều chính sách, góp phần tháo gỡ khó khăn
cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường.
Việc thực hiện các chính sách trên đã làm giảm
tỷ lệ động viên từ thuế, phí, lệ phí so với GDP
từ 26% bình quân giai đoạn 2006-2010 xuống
còn 23% bình quân giai đoạn 2011-2014.