 
          
            TÀI CHÍNH  -
          
        
        
          Tháng 12/2017
        
        
          
            89
          
        
        
          vững và hiệu quả.
        
        
          Với biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động
        
        
          (ROAit), sau khi dùng phương pháp GMM để giải
        
        
          quyết các vấn đề nội sinh tiềm ẩn, phương sai của
        
        
          sai số thay đổi và hiện tượng tự tương quan, ta có
        
        
          kết quả nghiên cứu như sau: Các biến độc lập kỳ
        
        
          thu tiền bình quân (ARit), kỳ luân chuyển hàng tồn
        
        
          kho (INVit), kỳ thanh toán bình quân (APit) và chu
        
        
          kỳ chuyển đổi tiền mặt (CCCit) tác động ngược
        
        
          chiều và có ý nghĩa thống kê với hiệu quả hoạt
        
        
          động (ROAit). Các biến độc lập kỳ thu tiền bình
        
        
          quân bình phương (ARit2), kỳ luân chuyển hàng
        
        
          tồn kho bình phương (INVit2), kỳ thanh toán bình
        
        
          quân bình phương (APit2), chu kỳ chuyển đổi tiền
        
        
          mặt bình phương (CCCit2) tác động cùng chiều
        
        
          và có ý nghĩa thống kê với hiệu quả hoạt động
        
        
          (ROAit). Điều này phản ánh rằng, có tác động phi
        
        
          tuyến của quản lý vốn lưu động đến hiệu quả hoạt
        
        
          động của DN. Ngoài ra, nhóm tác giả còn tìm thấy
        
        
          tác động cùng chiều của biến kiểm soát SIZEit, Tit
        
        
          và GDPt đến hiệu quả hoạt động (ROAit), tác động
        
        
          ngược chiều của biến kiểm soát LEVit lên hiệu quả
        
        
          hoạt động (ROAit).
        
        
          
            Một số giải pháp
          
        
        
          Với kết quả nghiên cứu trên, bài viết đề xuất một
        
        
          số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của DN ngành
        
        
          Thủy sản như sau:
        
        
          
            Thứ nhất,
          
        
        
          nâng cao hiệu quả quản lý các khoản
        
        
          phải thu.
        
        
          Tăng cường công tác thẩm định tài chính của
        
        
          khách hàng trước khi đưa ra quyết định bán chịu.
        
        
          Việc đánh giá này thường dựa trên các thông tin
        
        
          về tình hình hoạt động kinh doanh trong thời gian
        
        
          qua. Các thông tin về tình hình ngân quỹ của khách
        
        
          hàng cần được quan tâm và đưa ra các chính sách
        
        
          tín dụng thương mại hợp lý.
        
        
          
            Thứ hai,
          
        
        
          nâng cao hiệu quả sử dụng hàng dự trữ,
        
        
          tồn kho.
        
        
          Sau khi tính toán lượng hàng dự trữ thì DN sẽ
        
        
          phải tính toán để phân bổ hàng cho từng kho, căn
        
        
          cứ vào nhu cầu của từng nơi. Đối với những hàng
        
        
          hoá phải qua nhiều lần vận chuyển, nhập kho, thì
        
        
          tốt nhất là giảm số lần nhập kho đến mức thấp nhất
        
        
          có thể. Làm được điều này sẽ giảm bớt chi phí bốc
        
        
          dỡ và chi phí tồn kho.
        
        
          Việc tính toán thời điểm đặt hàng chính xác là
        
        
          một điều hết sức quan trọng. Thời điểm đặt hàng
        
        
          đúng lúc sẽ làm cho các chi phí tồn kho, dự trữ giảm
        
        
          xuống và có thể giao hàng cho khách hàng của mình
        
        
          đúng lúc, đảm bảo uy tín trong kinh doanh. Phải
        
        
          tính toán sao cho thời gian nhận hàng và thời gian
        
        
          vận chuyển hàng là vừa khít với thời gian lấy hàng
        
        
          của khách.
        
        
          
            Thứ ba,
          
        
        
          nâng cao hiệu quả sử dụng ngân quỹ.
        
        
          Thay vì dự trữ hoàn toàn bằng tiền mặt thì DN
        
        
          có thể nắm giữ một phần chứng khoán có tính thanh
        
        
          khoản cao. Số tiền mặt trong ngân quỹ không phải
        
        
          một lúc là có thể dùng tất cả cho việc xuất quỹ mà
        
        
          có những khoản tiền nhàn rỗi chưa dùng đến. Hơn
        
        
          nữa, mức tiền dự trữ còn bao gồm cả mức dự trữ
        
        
          an toàn, có thể có những kỳ hoạt động DN không
        
        
          dùng đến số tiền đó. Số tiền mặt nằm tại quỹ không
        
        
          có khả năng sinh lời, thậm chí là khả năng sinh lời
        
        
          âm. Nếu thay bằng việc dự trữ chứng khoán, trong
        
        
          lúc chưa dùng đến một khoản tiền thì khoản tiền đó
        
        
          được đầu tư và sinh lời, đem lại thu nhập từ hoạt
        
        
          động tài chính cho DN.
        
        
          
            Thứ tư
          
        
        
          , xây dựng và phát triển các mô hình dự
        
        
          báo tiền mặt.
        
        
          Tính toán và xây dựng các bảng hoạch định ngân
        
        
          sách giúp DN ước lượng được khoảng định mức
        
        
          ngân quỹ là công cụ hữu hiệu trong việc dự báo thời
        
        
          điểm thâm hụt ngân sách để DN chuẩn bị nguồn bù
        
        
          đắp cho các khoản thiếu hụt này. Nhà quản lý phải
        
        
          dự đoán các nguồn nhập, xuất ngân quỹ theo đặc thù
        
        
          về chu kỳ tính doanh, theo mùa vụ, theo kế hoạch
        
        
          phát triển của DN trong từng thời kỳ. Nhà quản lý
        
        
          DN ngành Thủy sản có thể gia tăng hiệu quả hoạt
        
        
          động của DN mình, tạo ra giá trị gia tăng cho nhà
        
        
          đầu tư thông qua việc quản lý vốn lưu động hợp lý.
        
        
          
            
              * Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát
            
          
        
        
          
            
              triển khoa học và công nghệ IUH trong đề tài mã số
            
          
        
        
          
            
              171.3031
            
          
        
        
          
            Tài liệu tham khảo:
          
        
        
          1. Từ Thị Kim Thoa và Nguyễn Thị Uyên Uyên. Mối quan hệ giữa quản trị vốn
        
        
          luân chuyển và khả năng sinh lợi: Bằng chứng thực nghiệm ở Việt Nam, Tạp
        
        
          chí Phát triển & Hội nhập,  Số 14 (24) - Tháng 01-02/2014, 2014);
        
        
          2. Afeef, M. Analyzing the Impact of Working Capital Management on the
        
        
          Profitability of SME’s in Pakistan, International Journal of Business and
        
        
          Social Science, Vol. 2 No. 22, 2011;
        
        
          3. Deloof,  M.  Does  Working Capital Management Affects Profitability of
        
        
          Belgian Firms?, Journal of Business Finance & Accounting, 30(3 & 4), 573-
        
        
          587, 2003;
        
        
          4. Dong, H.,  & Su, J. The Relationship between Working Capital Management
        
        
          and Profitability: A Vietnam Case, International Research Journal of Finance
        
        
          and Economics, ISSN 1450-2887 Issue 49, 2010;
        
        
          5. Doytch, N., &Uctum, M. Does theworldwide shift of FDI frommanufacturing
        
        
          to services accelerate economic growth? A GMM estimation study,  Journal
        
        
          of International Money and Finance, 30(3), 410-427, 2011;
        
        
          6. Driffill, J., Psaradakis, Z., & Sola, M. Testing the expectations hypothesis of
        
        
          the term structure using instrumental variables. International Journal of
        
        
          Finance and Economics, 3(4), 321-325, 1998.