TCTC so 6 ky 1 - page 63

TÀI CHÍNH -
Tháng 6/2015
65
thị trường sau khi đánh giá tình hình hoạt động và
mức độ lành mạnh của các ngân hàng.
Nhìn lại đầu năm 2012, Ngân hàng Nhà nước
đã phân định các tổ chức tín dụng thành 4 nhóm
tăng trưởng, đó là 17%,15%, 8% và 0%. Thế nhưng
đến khoảng tháng 8/2012, có hàng chục ngân hàng
lại xin Ngân hàng Nhà nước cho phép nới “room”
tăng tín dụng và 10 tổ chức tín dụng (như VPBank,
HDBank, OceanBank, TienPhongBank, OCB…) đã
được chấp thuận điều chỉnh tăng, nới “room” tăng
tín dụng lên tới 25 - 30%. Vấn đề đặt ra là chỉ tiêu
tín dụng đưa ra đầu năm có còn ý nghĩa gì khi mà
những ngân hàng xin thêm lại được tăng tín dụng
cao hơn nhiều so với các ngân hàng nằm trong
nhóm 1 và hầu hết các ngân hàng xin thêm chỉ tiêu
tăng trưởng tín dụng đều không dùng hết trong
khi các ngân hàng khác cũng tăng tín dụng không
theo chỉ tiêu được giao.
Nên chăng Ngân hàng Nhà nước chỉ yêu cầu tổ
chức tín dụng kiểm soát chất lượng các khoản vay
nhằm giảm nợ xấu hơn là giới hạn về tốc độ tăng
tín dụng để giúp các ngân hàng thoát khỏi “vòng
luẩn quẩn” về tín dụng trong khi dòng tiền vẫn có
cơ hội đến đúng địa chỉ cần vay, nhằm kích thích
hoạt động sản xuất, tiêu dùng của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ nên để các ngân hàng
tự cân đối trên cơ sở khả năng huy động vốn, xử
lý nợ xấu, mục tiêu quản trị ngân hàng… Thực
tế cho thấy, một mình các ngân hàng thương mại
không thể tạo ra tăng trưởng tín dụng mà đòi
hỏi cả hệ thống phải vào cuộc để thúc đẩy doanh
nghiệp quay trở lại sản xuất kinh doanh. Phải có
giải pháp đồng bộ, từ chính sách tài khóa, tiền tệ,
để làm sao khơi thông sức cầu nội địa, kể cả cầu
tiêu dùng của dân cư và chi tiêu, đầu tư công, từ
đó kéo sức cầu trong sản xuất. Một khi sản xuất
mạnh lên, nhu cầu vốn đầu tư tốt hơn, các doanh
nghiệp tích cực sản xuất kinh doanh, sẽ giúp giải
phóng hàng tồn kho, qua đó tác động tích cực đến
công tác thu hồi nợ và xử lý nợ xấu của ngân hàng.
Ba là,
ngân hàng đảm bảo quy trình cho vay
khoa học, chặt chẽ và tăng cường các nghiệp vụ
kiểm tra, kiểm soát.
Hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại vẫn
đang phải đối mặt với gánh nặng nợ xấu. Việc
hình sự hóa các giao dịch dân sự, kinh tế trong
lĩnh vực ngân hàng với các vụ xét xử vi phạm
nghiệp vụ diễn ra ngày càng nhiều trong thời
gian qua, điển hình như vụ án Công ty cổ phần
thủy sản Phương Nam lập hồ sơ giả, sử dụng vốn
sai mục đích chiếm đoạt hàng nghìn tỷ đồng từ
các ngân hàng... khiến các ngân hàng ngày càng
trở nên thận trọng, chặt chẽ hơn trong quá trình
thẩm định, quyết định xét duyệt hồ sơ cho vay.
Bên cạnh đó, quy trình cho vay khoa học, phù hợp
với thực tế, đảm bảo quản lý chặt chẽ từ khâu tiếp
nhận, xét duyệt, thẩm định hồ sơ tới việc giám
sát, kiểm soát khoản cho vay… cũng đã được chú
trọng hơn. Tuy nhiên, dù quy trình cho vay được
thực hiện trên cơ sở tuyệt đối tuân thủ các nguyên
tắc quản lý rủi ro, dư nợ tăng trưởng cao nhưng
nếu không có quy trình kiểm soát chặt chẽ sẽ gây
rủi ro rất lớn đối với ngân hàng, đặc biệt rủi ro nợ
xấu rất dễ xảy ra gây hậu quả nghiêm trọng. Đây
chính là “kinh nghiệm xương máu” cho rất nhiều
ngân hàng trong thời gian qua.
Ngoài ra, các ngân hàng cần có phương pháp
quản lý dòng tiền hợp lý, chính xác khi tăng trưởng
dư nợ. Hiện nay, sự thiếu sát sao, chặt chẽ của cán
bộ ngân hàng đối với việc kiểm soát dòng tiền sau
khi khoản cho vay được giải ngân là một trong các
nguyên nhân khiến ngân hàng không kiểm soát
được mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Đây
là một lỗ hổng rất lớn làm tăng rủi ro nợ xấu. Do
vậy, việc tăng trưởng hạn mức tín dụng đối với
doanh nghiệp vay vốn phải dựa trên sức khỏe tài
chính lành mạnh của doanh nghiệp bởi một khi
lượng vốn đổ ra ồ ạt, nếu không có sự quản lý
chặt chẽ dòng tiền từ ngân hàng thì sẽ rất nguy
hại, không chỉ làm lãng phí nguồn lực tài chính,
mà nguy cơ thua lỗ, mất vốn rất cao. Trong thời
gian tới, mức tăng trưởng bao nhiêu thì ngân hàng
phải tự quyết định dựa trên năng lực tài chính của
khách hàng. Ðây cũng là yếu tố quan trọng vừa
nâng cao chất lượng hoạt động cho vay, đẩy vốn
đúng địa chỉ vừa kiểm soát được rủi ro.
Tài liệu tham khảo:
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2014), Thông cáo báo chí kết quả điều
hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2014, định hướng
giải pháp điều hành 2015;
2. Báo cáo tình hình kinh tế 5 tháng đầu năm 2015 của Uỷ ban Giám sát
Tài chính quốc gia;
3. Báo cáo về tình hình kinh tế xã hội 5 tháng đầu năm của Cục Thống kê
Hà Nội;
4. Các website:
.
Đến năm 2016, khi tổng doanh số nợ mua
được lên mức khoảng 200.000 tỷ đồng, VAMC
mới thật sự tập trung vào xử lý số nợ xấu. Tuy
nhiên, câu chuyện xử lý khoản nợ xấu khổng lồ
này như thế nào, hiệu quả ra sao… thì vẫn còn
ở phía trước.
1...,53,54,55,56,57,58,59,60,61,62 64,65,66,67,68,69,70
Powered by FlippingBook