TCTC so 6 ky 1 - page 58

60
KINH TẾ - TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
trên thị trường trong và ngoài nước, đa dạng hóa
thị trường xuất nhập khẩu. Định hướng trên ngày
càng được được tăng cường nhờ vào các chính sách
khuyến khích xuất khẩu như: Cắt giảm các rào cản
thuế quan và phi thuế quan, phát triển khu vực tư
nhân, cải cách doanh nghiệp nhà nước, hoàn thuế
xuất khẩu, các chương trình xúc tiến xuất khẩu…
Về thách thức
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu, rộng
vào kinh tế khu vực và thế giới, do vậy sẽ phải đối
diện với sự cạnh tranh trên cả ba cấp độ quốc gia,
doanh nghiệp và sản phẩm ngày càng gay gắt trong
quá trình thu hút đầu tư và mở rộng thị trường
xuất khẩu. Trong khi đó, năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế, năng lực doanh nghiệp và sản phẩm
của Việt Nam còn thấp hơn so với rất nhiều nước
trong khu vực. Theo xếp hạng năng lực cạnh tranh
quốc gia do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công
bố cho năm 2014-2015, Việt nam ở mức rất thấp
và ít có cải thiện từ nhiều năm nay. Đặc biệt, năng
lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp Việt
Nam còn thấp, nhất là năng lực tài chính và năng
lực quản trị doanh nghiệp. Mức độ phụ thuộc vào
thị trường thế giới của xuất khẩu và cả nền kinh tế
còn cao, trong khi đó khả năng thích ứng của sản
xuất trong nước với những biến động của tình hình
quốc tế còn chậm.
Trong thời gian qua kim ngạch xuất khẩu tăng
nhưng khả năng cạnh tranh của các mặt hàng chậm
được cải thiện, mức độ chế biến của hàng xuất khẩu
thấp, chưa có những ngành hàng mũi nhọn có khả
năng cạnh tranh cao, giá trị gia tăng lớn. Một số
mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
đã đến gần giới hạn tối đa về sản lượng, trong khi
các mặt hàng mới lại chưa được nhận diện thương
hiệu. Để gia tăng kim ngạch xuất khẩu trong giai
đoạn tới, Việt Nam cần tăng cường nguồn lực đầu
tư cho nghiên cứu, để nâng cao giá trị gia tăng và
phát triển mặt hàng mới.
Thứ hai, thể chế kinh tế còn đang trong quá trình
hoàn thiện.
Tổ chức và quản lý nhà nước đối với hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hóa còn chưa theo kịp so
với đòi hỏi của quá trình phát triển nhanh và bền
vững. Các chính sách hiện vẫn chưa thực sự quan
tâm đến phát triển thị trường xuất khẩu, còn thiếu
những chính sách thị trường hiệu quả. Mặc dù
cho tới nay Việt Nam vẫn được coi là một nước
thực hiện nghiêm túc các cam kết hội nhập, kể cả
việc điều chỉnh luật pháp, thể chế trong nước; tuy
nhiên, cần xem xét tính hiệu lực thực thi của việc
thực hiện cam kết vì thực tế cho thấy cải cách thể
chế chưa thực sự hiệu quả, các lực lượng thị trường
vẫn chưa được giải phóng. Do đó, các cơ hội của tự
do hóa với bên ngoài khó được tận dụng, thậm chí
biến thành thách thức.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất
khẩu hàng hóa đang bị quá tải và xuống cấp.
Kết cấu cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc vận
chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hoá xuất
khẩu yếu nên đẩy giá thành sản phẩm và chi phí
gián tiếp tăng cao hơn so với các nước trong khu
vực. Ví dụ: Đối với vận tải đường biển, cước vận
chuyển một container 40 feet xuất khẩu đi Mỹ là
3.000 USD, cao gấp 1,5 lần so với Trung Quốc (2.000
USD) và 1,2 lần so với Thái Lan (2.500 USD). Chi
phí vận tải đường bộ cũng là một gánh nặng đối
với doanh nghiệp do địa hình phức tạp, hệ thống
hạ tầng giao thông kém phát triển, phương tiện
vận tải kém chất lượng, phí cầu đường. Theo tính
toán của các chuyên gia, nếu cải thiện được những
vấn đề này thì doanh nghiệp có thể hạ giá thành
vận chuyển ít nhất là 30%...
Thực tế trên đòi hỏi Việt Nam cần phải có quan
điểm đúng đắn đối với hoạt động xuất khẩu hàng
hoá trong thời gian tới, có như vậy mới có thể định
ra được những chiến lược và chính sách đẩy mạnh
xuất khẩu hàng hoá một cách bền vững và hiệu
quả. Đi liền với đó, các doanh nghiệp cũng cần
phải chủ động, tích cực để tận dụng cơ hội, vượt
qua thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế; không ngừng đổi mới, nỗ lực nâng cao
chất lượng sản phẩm và phát triển thị trường tiêu
thụ hàng hoá.
Tài liệu tham khảo:
1. World Bank (2014), Vietnam Environment Monitor 2014;
2. UNCTAD (2014), StatisticsHandbook 2013;
3. Cline, William (2013), The world trade policy and poverty, International
Institute of economics, Washington;
4. GRET (Research and Technology Exchange Group) (2010), Vietnamese
argriculture and WTO, Public Policies and International Regulation, 2010.
Việc tham gia ký kết Hiệp định TPP không có
Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ sẽ là cơ hội rất
lớn để hàng nông sản Việt Nam “chiếm lĩnh”
thị trường của các nước thành viên TPP; doanh
nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hóa, tham gia vào mạng lưới sản
xuất và phân phối khu vực và toàn cầu.
1...,48,49,50,51,52,53,54,55,56,57 59,60,61,62,63,64,65,66,67,68,...70
Powered by FlippingBook