55
Kinh nghiệm quốc tế về triển khai
hợp tác công – tư
PPP (Public – Private Partner) là hợp tác công - tư
mà theo đó Nhà nước cho phép tư nhân cùng tham
gia đầu tư vào các dịch vụ hoặc công trình công cộng
của nhà nước. Với mô hình PPP, Nhà nước sẽ thiết
lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ và tư nhân
được khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán
theo chất lượng dịch vụ. Đây là hình thức hợp tác
tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và cung cấp dịch vụ công
cộng chất lượng cao, bởi nó mang lại lợi ích cho cả
Nhà nước và người dân; tận dụng được nguồn lực
tài chính và quản lý từ tư nhân, trong khi vẫn đảm
bảo lợi ích cho người dân.
Hình thức PPP tuy mới mẻ đối với Việt Nam
nhưng đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng
từ hơn 50 năm nay. Kinh nghiệm thế giới cho thấy,
nhờ áp dụng hình thức PPP mà nhiều vấn đề bức
xúc của các đô thị lớn đã được giải quyết… Thống
kê cho thấy, trên thế giới hiện có 5 mô hình PPP
được áp dụng phổ biến sau: Mô hình nhượng quyền
khai thác (Franchise); Mô hình thiết kế - xây dựng
- tài trợ - vận hành (DBFO); Mô hình xây dựng -
vận hành - chuyển giao (BOT); Mô hình xây dựng
- chuyển giao - vận hành (BTO); Mô hình xây dựng
- sở hữu - vận hành (BOO). Tuy nhiên, căn cứ vào
cách tiếp cận, hiện nay tại nhiều nước phát triển trên
thế giới đều phân biệt hình thức hợp tác PPP theo
hai hướng cụ thể, đó là phương thức của Pháp hay
phương thức của Anh. Quan niệm này bắt nguồn từ
những mô hình đầu tư PPP đã được nước Pháp và
nước Anh áp dụng hiệu quả vào trong quá trình xây
dựng các kênh đào ở Pháp (ở thế kỷ 18) và các cây
cầu ở London (vào thế kỷ 19).
Theo kinh nghiệm của Pháp:
Phương thức PPP chỉ
toàn bộ các hợp đồng, trong đó, chính quyền công là
một pháp nhân giao việc quản lý một dịch vụ công
thuộc trách nhiệm quản lý của mình cho một đối
tác công khác hoặc tư nhân mà trong đó lợi nhuận
phát sinh phụ thuộc vào khai thác dịch vụ. Như
vậy, PPP theo phương thức của Pháp được xem như
ủy quyền làm dịch vụ công. Doanh nghiệp tư nhân
được giao khai thác dịch vụ dưới sự quản lý của
Nhà nước, Nhà nước vẫn là chủ sở hữu hạ tầng.
Điều đặc biệt của hình thức này là doanh nghiệp
được xem là pháp nhân liên hệ trực tiếp với người
sử dụng dịch vụ công và phải quản lý rủi ro thương
mại liên quan tới dịch vụ.
Theo kinh nghiệm của Anh:
Phương thức PPP là
một hợp đồng hành chính, trong đó một cơ quan
Nhà nước có thể giao cho một doanh nghiệp, hoặc
một nhóm doanh nghiệp có nhiệm vụ đóng góp các
khoản đầu tư gồm phí vật chất, công trình hoặc thiết
bị mới cần thiết cho dịch vụ công, xây dựng hay cải
tạo công trình hoặc nâng cấp các thiết bị hiện có…
Anh cũng đã xây dựng cơ chế tái cấp vốn cho các dự
án PPP. Theo đó, có thể xem xét để đảm bảo tài chính
cho một dự án hoặc nền tảng cấu trúc tài chính với
giá trị tối thiểu là 20 triệu bảng Anh. Theo Bộ Ngân
khố Vương quốc Anh, PPP chiếm 11% trong tổng
đầu tư công ở Anh; môi trường và giao thông vận
tải là 2 lĩnh vực áp dụng PPP nhiều nhất tại Vương
quốc Anh. Đến nay tại Anh đã có 667 hợp đồng PPP
được ký kết với giá trị vốn 56,6 tỷ bảng Anh và hiện
MỘTSỐKINHNGHIỆM
TRIỂNKHAI DỰÁNHỢP TÁC CÔNG - TƯ
ThS. NGUYỄN THỊ THU TRANG
- Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp
Không chỉ riêng Việt Nam, ngay cả những nước có nền kinh tế phát triển hiện nay cũng
đang rất lưu tâm đến hình thức huy động vốn đầu tư tư nhân, nhất là mô hình hợp tác
công – tư (PPP) vào phát triển cơ sở hạ tầng. Khảo sát kinh nghiệm quốc tế, bài viết đưa ra
một số đề xuất nhằm giúp Việt Nam vận dụng hiệu quả phương thức hợp tác công - tư vào
phát triển cơ sở hạ tầng.
KINH TẾ - TÀI CHÍNH QUỐC TẾ