106
KINH TẾ QUỐC TẾ
Nghiên cứu giai đoạn 1980 – 2007 tại Đài Loan
cho thấy, thâm hụt NSNN dẫn đến thâm hụt
CCVL; bên cạnh đó, CCVL cũng gián tiếp tác động
đến NSNN thông qua tỷ giá và lãi suất. Tương
tự, cũng trong giai đoạn này, mối quan hệ nhân
quả hai chiều cũng được tìm thấy đối với trường
hợp nền kinh tế Singapore (Jui-Chuan Chang và
Zao-Zhou Hsu, 2009). Tại thị trương Malaysia và
Philippines, các kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng
tồn tại mối quan hệ nhân quả hai chiều, trong đó
có một chiều tác động gián tiếp từ NSNN thâm
hụt làm tăng lãi suất, tăng tỷ giá dẫn đến trầm
trọng hơn tình trạng của CCVL (Baharumshah,
A.Z., E.Lau và A.M.Khalid, 2006). Nghiên cứu về
thâm hụt cán cân thương mại và NSNN tại Brazil
từ năm 1973 đến năm 1991 cũng chứng minh sự
tồn tại của mối quan hệ nhân quả hai chiều này
(Islam M. Faizul, 1998).
Không có mối quan hệ tác động giữa thâm hụt
cán cân vãng lai và thâm hụt ngân sách nhà nước
Trong trường hợp chi tiêu Chính phủ ổn định
trong một thời gian dài với nguồn tài trợ là thuế,
với những năm nguồn thu từ thuế vượt quá mức
chi tiêu, Chính phủ sẽ cho vay; ngược lại khi số
thu từ thuế thấp hơn mức chi tiêu, Chính phủ phải
đi vay. Nhờ có đường chi tiêu ổn định qua các
năm, nên Chính phủ dự báo được mức thu thuế
hợp lý cho tương lai. Khi Chính phủ quyết định
cắt giảm thuế thì buộc phải sử dụng nguồn tiền
từ đi vay vào bù đắp thiếu hụt NSNN. Khi Chính
phủ quyết định tăng thuế, số tiền tăng thêm sẽ
được sử dụng để chi trả cho các khoản lợi tức trái
phiếu của các khoản vay Chính phủ. Bên cạnh đó,
ở khu vực tư nhân, mức thu nhập khả dụng trong
hiện tại và tương lai đều tác động đến quyết định
tiêu dùng hiện tại.
Trong điều kiện hoàn hảo với các giả thuyết
như trên, nếu Chính phủ cắt giảm thuế sẽ làm giảm
nguồn thu NSNN, làm giảm tiết kiệm công do chi
ổn định, NSNN bị thâm hụt. Tuy nhiên, việc giảm
thuế lại giúp gia tăng tiết kiệm tư nhân do người
dân quyết định dựa vào tình hình hiện tại và kỳ
vọng tương lai, họ cho rằng việc cắt giảm thuế
trong hiện tại sẽ cần được bù đắp trong tương lai
bằng cách tăng thuế, vì vậy họ gia tăng tiết kiệm để
chuẩn bị trả cho khoản thuế tăng lên trong lương
lai. Khi xét tổng của hai chiều tác động giảm tiết
kiệm công, tăng tiết kiệm tư nhân thì tiết kiệm
quốc gia không bị ảnh hưởng. Như vậy, NSNN bị
thâm hụt không ảnh hưởng đến tiết kiệm quốc gia,
từ đó không tác động đến CCVL.
Ngược lại, khi Chính phủ cắt giảm thuế, thu nhập
thực tế của người dân tăng lên, nhu cầu nhập khẩu
cũng tăng lên. Người dân cho rằng, trong tương lai
thuế sẽ tăng, cơ hội mua hàng nhập khẩu sẽ giảm
xuống, vì vậy người dân tập trung nhập khẩu ngay
trong hiện tại, làm CCVL có xu hướng thâm hụt. Do
trì hoãn thuế chỉ mang tính tạm thời nên tình trạng
gia tăng nhu cầu nhập khẩu cũng mang tính ngắn
hạn trong khu vực tư nhân. Thâm hụt CCVL làm
chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhưng giảm thuế
lại khuyến khích đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tổng
của hai chiều tác động là nền kinh tế ổn định trong
ngắn hạn, do đó không tác động đến NSNN. Như
vậy, CCVL bị thâm hụt không tác động đến thâm
hụt NSNN.
Bằng mô hình thực nghiệm, các nhà khoa học đã
chỉ ra rằng, mặc dù NSNN và CCVL cùng thâm hụt
tại một thời điểm, nhưng hai cán cân này lại không
có mối liên hệ tác động lẫn nhau với trường hợp
của Ai Cập, Iran, Marocco, Syria, Nigeria, Tunisia
và Bahrain những năm 1977 – 2003 (Hashemzadeh,
N. và Wilson, 2006).
Thực tế đã chỉ ra, mỗi một quốc gia, trong từng
thời kỳ kinh tế khác nhau lại gặp các loại hình
thâm hụt kép khác nhau. Vì vậy, Chính phủ không
nên áp dụng máy móc bài học kinh nghiệm của các
quốc gia khác mà cần phân tích, tìm được nguyên
nhân của hiện tượng này, từ đó đề ra các chính
sách kinh tế phù hợp nhằm cải thiện tình trạng
CCVL và NSNN.
Tài liệu tham khảo:
1. Alkswani, M.A. (2000), The twin deficits phenomenon in petroleum
economy: Evidence from Saudi Arabia, Economic Research Forum
(ERF), Jordan;
2. Baharumshah, A.Z., E.Lau và A.M.Khalid (2006), Testing twin deficits
hypothesis for ASEAN-4: Using VARs and Variance Decomposition, Journal
of Asia Pacific Economy;
3. Bose, S. và Jha, S. (2011), India’s twin deficits: some fresh empirical
evidence, Money and Finance Icra Bulletin, India;
4. Chinn, M.D. và E.S.Prasad (2003), Medium – term determinants of current
accounts in Industrial and Developing countries: An empirical exploration,
Journal of International Economics;
5. Hashemzadeh, N. và Wilson (2006), The Dynamics of Current account and
budget deficits in selected countries of the Middle East and North Africa,
International Research Journal of Finance and Economics
6. Islam M. Faizul (1998), Brazil’s twin deficits: an empirical examination,
Atlantic Economic Journal;
7. Jui-Chuan Chang và Zao-Zhou Hsu (2009), Causality Relationships
between the Twin Deficits in the Regional Economy, National Chi Nan
University Taiwan.