TÀI CHÍNH -
Tháng 12/2017
57
Tuy nhiên, nếu hình thức đầu tư là gián tiếp thông
qua ngân hàng thì các nhà đầu tư sẽ gửi tiền vào
ngân hàng và ủy thác vai trò cho vay cho ngân hàng
đảm nhiệm.
Cơ cấu sở hữu:
Cơ cấu sở hữu là một yếu tố khác mà thông qua
đó chất lượng thông tin kế toán bị ảnh hưởng bởi
hệ thống chính trị - pháp luật (Mũi tên 9 - Hình 1).
La Porta (1998) nhận thấy rằng, những nước có xu
hướng bảo vệ quyền lợi các nhà đầu tư tốt thì lại
thường không chú ý nhiều đến vấn đề quyền sở hữu.
Họ tranh luận rằng, tập trung vào quyền sở hữu cũng
đồng nghĩa với việc có bảo vệ về mặt luật pháp do
hai nguyên nhân:
Thứ nhất,
các cổ đông thường cần được nắm nhiều
quyền kiểm soát DN trong tay để tránh rơi vào tình
trạng bị các nhà quản trị che mắt.
Thứ hai,
các nhà đầu tư nhỏ lẻ thường không hứng
thú với các cổ phiếu mà khi mua chúng, quyền lợi
của họ không được bảo đảm. Hệ thống chính trị cũng
có tác động lên cơ cấu sở hữu của DN, thể hiện thông
qua việc một nhà nước mà xuất hiện phổ biến hiện
tượng DN có xu hướng tìm kiếm các ưu đãi thông
qua chính trị thì thường thiên về hình thức sở hữu
tập trung.
Hệ thống thuế:
Hệ thống thuế quan là một khía cạnh khác trong
chuỗi các yếu tố ảnh hưởng của hệ thống chính trị-
pháp luật. Một hệ thống thuế có thể gây ảnh hưởng
đến chất lượng thu nhập của DN thông qua một
vài con đường (Mũi tên 10 - Hình 1). Trước tiên
các khoản thu nhập không phản ánh một cách chân
thực tình hình hoạt động của các DN tại các quốc
gia mà thu nhập kế toán và thu nhập chịu thuế
có mối quan hệ khăng khít với nhau. Nếu chuẩn
mực kế toán và luật thuế có mối liên hệ chặt chẽ
thì chúng sẽ kéo theo chất lượng giảm sút do trong
trường hợp này cả hai đều được xem là công cụ
được sử dụng với mục đích chính trị, ví dụ như để
thu thuế về cho chính phủ. Hai là, tỷ lệ thuế suất
cao sẽ tạo ra nhiều các yếu tố tác động với mục
đích làm giảm thu nhập chịu thuế. Vì vậy, đặt tỷ lệ
thuế suất cao sẽ khiến lợi nhuận thu được trên các
báo cáo tài chính giảm xuống. Burgstahler (2007)
nhận thấy, DN có tỷ lệ thu nhập và thuế tương
xứng với nhau và thuế suất cao thường có hành
vi điều chỉnh báo cáo tài chính. Haw (2004) cho
rằng, nếu một DN có báo cáo tài chính trong sạch,
ít bị sửa đổi, thì họ luôn sẵn sàng nộp thuế và điều
này có ảnh hưởng lớn đến khả năng kiểm soát tính
chân thực của báo cáo tài chính hơn là những ảnh
hưởng của hệ thống tư pháp.
Một số đề xuất nâng cao chất lượng
thông tin trên báo cáo tài chính
Việc sử dụng giá trị hợp lý phù hợp với chuẩn
mực và thông lệ quốc tế nhằm: đáp ứng yêu cầu hội
nhập, các tiêu chuẩn đánh giá của quốc tế; Đảm bảo
tính đồng bộ của hệ thống kế toán, theo đó, hệ thống
Chuẩn mực kế toán Việt Nam hiện nay xây dựng dựa
trên Chuẩn mực kế toán quốc tế, và việc định giá cũng
không thể khác được. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường
Việt Nam, thị trường chứng khoán Việt Nam còn khá
non trẻ, nhiều dữ liệu tham chiếu, nếu áp dụng thiếu
bộ chuẩn mực quốc tế tức thì sẽ ảnh hưởng đến tính
tin cậy của thông tin được định giá theo giá trị hợp lý.
Do vậy, việc định giá theo giá trị hợp lý cần tính toán
phù hợp với đặc điểmkinh tế của từng giai đoạn. Theo
đó, việc xác định một lộ trình hợp lý là cần thiết.
Về lập báo cáo tài chính, Ủy ban chứng khoán
Nhà nước cần nghiên cứu xem xét áp dụng và triển
khai báo cáo tích hợp, giúp định hình lại mục tiêu
và xây dựng lộ trình phù hợp cho báo cáo tạo ra giá
trị dài hạn và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao từ các
bên liên quan. Báo cáo tích hợp không chỉ đơn thuần
là việc ghép 3 báo cáo: Báo cáo thường niên, báo cáo
bền vững và báo cáo tài chính của DN mà là sự tích
hợp thông tin một cách sáng tạo để truyền tải một
câu chuyện xuyên suốt về cách thức tạo ra giá trị của
DN. Khi xây dựng được báo cáo tích hợp hoàn chỉnh,
DN sẽ tạo được sự tin tưởng của nhà đầu tư và từ đó
ảnh hưởng tích cực lên giá cổ phiếu của DN đó.
Phân tích các yếu tố quyết định đến chất lượng kế
toán có ý nghĩa rất quan trọng. Hướng trọng tâm vào
các yếu tố tác động đến báo cáo tài chính sẽ là một
giải pháp khôn ngoan và ít tốn kém để có thể nâng
cao chất lượng kế toán trong tương lai. Tại Việt Nam,
việc tăng cường áp dụng giá trị hợp lý cũng như việc
lập báo cáo tài chính tích hợp, cũng là những đề xuất
đáng lưu tâm trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tài chính (2002), Chuẩn mực kế toán Việt Nam (Đợt 1);
2. Barth, M., Landsman, W. and Lang, M. (2006) International accounting
standards and accounting quality, Working Paper, Stanford University and
University of North Carolina atChapel Hill;
3. Fan, J. and Wong, T.J. (2002) Corporate ownership structure and the
informativeness of accounting earnings in East Asia, Journal of Accounting
and Economics, 33(3), pp. 401-25;
4. Holthausen, R. and Watts, R. (2001) The relevance of the value-relevance
literature for financial accounting standard setting, Journal of Accounting and
Economics, 31(1-3), pp. 3-75;
5. Leuz, C., Nanda, D. andWysocki, P. (2003) Earnings management and investor
protection: an international comparison, Journal of Financial Economics,
69(3), pp. 505-27.