K1 T3 - page 73

TÀI CHÍNH -
Tháng 3/2017
75
Tự chủ về tài chính
Nguồn từ ngân sách nhà nước chiếm từ 30% - 40%
tổng thu của các trường đại học hàng năm. Nguồn
thu từ hoạt động sự nghiệp, bao gồm nguồn thu từ
sinh viên và các nguồn thu khác chiếm khoảng 60%
- 70% tổng nguồn thu của các trường. Bình quân các
trường đại học tự đảm bảo cân đối chi thường xuyên
được khoảng 75% từ nguồn thu sự nghiệp. Tuy
nhiên, với tỷ lệ chi thường xuyên này vẫn chưa thể
đảm bảo đủ nguồn lực để tăng cường đầu tư cơ sở
vật chất và đảm bảo thu nhâp tăng thêm cho cán bộ,
giảng viên hàng năm.
Trước thực trạng này, các trường phải tự cân đối bù
đắp chi thường xuyên đối với khối đào tạo chính quy
tập trung từ các khoản thu của các hệ đào tạo liên kết
trong và ngoài nước, đào tạo bằng đại học thứ 2, đào
tạo thường xuyên…
Tự chủ về nhân sự
Theo thống kê của Cục Thông tin Khoa học và Công
nghệ quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ), ở Việt Nam
có hơn 24.000 tiến sĩ), tính đến cuối năm 2016 Việt Nam
có khoảng 15.000 tiến sĩ (bao gồm cả các giáo sư, phó
giáo sư) công tác tại các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng.
Tuy nhiên, hiện nay quyền tự chủ về tổ chức, quản
lý, nhân sự vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần phải được
hoàn thiện tiếp để bảo đảm tính công bằng, công khai,
khoa học của các quy định về mặt tổ chức. Việc chi trả
lương cho cán bộ, giáo viên các trường vẫn phải tính
theo hệ số lương cơ bản do nhà nước quy định, trừ đại
học quốc gia là tự quyết định. Vì vậy, đã gây khó khăn
cho các trường trong việc nâng cao thu nhập cho người
lao động và thu hút các giảng viên cũng như các nhà
khoa học giỏi về làm việc cho nhà trường.
Tự chủ về đào tạo
Theo kết quả điều tra khảo sát cho thấy quyền tự
chủ trong lĩnh vực kế hoạch tuyển sinh vẫn còn nhiều
mặt hạn chế, chỉ có 28% các trường đại học đã thực sự
thực hiện tự chủ về vấn đề tuyển sinh và khoảng 44%
trường đại học có quyền tự chủ về vấn đề đào tạo. Trên
thực tế hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang nắm
giữ và chỉ đạo công tác tuyển sinh. Vì vậy, các trường
đại học đang bị phụ thuộc ở nhiều khâu như: ngày tổ
chức kỳ thi tuyển sinh trong cả nước, việc phát hành
hồ sơ đăng ký dự thi của thí sinh và việc nhận hồ sơ.
Chương trình khung này chiếm 70% khối lượng nội
dung chương trình và các trường chỉ được tự chủ có
30% khối lượng nội dung còn lại.
Về xây dựng kế hoạch giảng dạy qua điều tra có 66%
ý kiến cho các trường đã có đầy đủ quyền hạn. Về việc
tổ chức biên soạn, duyệt và thẩmđịnh giáo trình có 70%
ý kiến điều tra cho các trường đã có đầy đủ quyền hạn.
Nhìn chung, mức độ tự chủ về tuyển sinh và đào tạo
của các trường đại học vẫn còn tồn tại khá nhiều vấn đề
mà nhà nước cần phải xem xét mở rộng quyền tự chủ
nhiều hơn nữa, để các trường chủ động trong việc đào
tạo đáp ứng nhu cầu thị trường và sự hội nhập quốc tế.
Một số khó khăn, hạn chế
Việc thực hiện tự chủ đại học ở Việt Nam đã đạt
được các kết quả khả quan, tuy nhiên, quá trình này
cũng gặp một số khó khăn, hạn chế nhất định.
Thứ nhất,
hiện nay nhiều quy định văn bản pháp lý
chưa kịp thay đổi để hỗ trợ cho các trường đại học tự
chủ. Nghị quyết 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế
hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập
giai đoạn 2014 - 2017 của Chính phủ chỉ mới là thí điểm
nên các văn bản pháp luật không thay đổi theo. Dưới
góc độ quản lý tại các trường đại học công lập, do sự
thiếu định hướng từ các cơ quan quản lý nhà nước cho
nên bản thân các trường khá lúng túng trong việc xây
dựng chiến lược và tầm nhìn rõ rệt cho mình.
Thứ hai,
nguồn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cấp
cho giáo dục đại học còn hạn chế, cơ chế phân bổ ngân
sách vẫn mang tính bình quân giữa các trường đại học
công lập, chưa gắn với các tiêu chí phản ánh chất lượng
và kết quả đầu ra. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu
động lực cạnh tranh giữa các trường đại học. Đối với
các trường thuộc khu vực miền Trung, có nhiều sinh
viên thuộc diện chính sách đến học, chiếm từ 20 - 30%
tổng số sinh viên, được Nhà nước miễn, giảm học phí,
nhưng Nhà nước lại không cấp bù kinh phí này cho
trường.
Thứ ba,
theoNgân hàng Thế giới (2008), sự kiểm soát
và lệ thuộc về nguồn tài chính (trong tổng số nguồn
lực tài chính của các trường công lập, ngân sách đào
tạo chiếm 68%, học phí chiếm 26%, các khoảng thu
khác chiếm 6%) là một trong những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến sự khó khăn trong công tác quản lý tại
các trường đại học công lập. Do nguồn ngân sách được
cấp là nguồn thu chủ yếu và lại lệ thuộc rất lớn vào quy
mô hay cụ thể hơn là số lượng sinh viên đầu vào của
trường cho nên để gia tăng ngân sách chỉ có thể có được
khi tăng quy mô sinh viên. Khi quy mô sinh viên tăng
nhanh hơn so với sự gia tăng giảng viên, đồng thời để
tiết kiệm chi phí một số trường thực hiện việc ghép lớp
làm tăng sỹ số sinh viên, điều này ảnh hưởng không
nhỏ tới chất lượng đào tạo.
Thứ tư,
mặc dù việc cải cách, đổi mới chính sách
học phí, lộ trình tăng học phí của các trường đại học
trong thời gian qua đã được thực hiện theo Nghị định
số 49/2010/NĐ-CP ngày 15/5/2010 của Chính phủ cho
giai đoạn 2010-2015 và Nghị định số 86/2015/NĐ-CP
1...,63,64,65,66,67,68,69,70,71,72 74,75,76,77,78,79,80,81,82,83,...94
Powered by FlippingBook