K2 T3 - page 30

28
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
bao gồm: Quyền độc quyền công bố đến công chúng
của người biểu diễn, nhà sản xuất các bản ghi âm,
ghi hình; Quy trình và cách thức bảo hộ đối với 169
chỉ dẫn địa lý của EU liệt kê trong EVFTA; Cam kết
bù đắp thời hạn sáng chế dược phẩm cho những
chậm trễ trong cấp phép lưu hành; và Nguyên tắc
suy đoán về quyền của người có tên trên tác phẩm.
Ví dụ Điều 5.6 của EVFTA quy định về các căn cứ
yêu cầu chấm dứt hiệu lực nhãn hiệu của Việt Nam
nếu nhãn hiệu đó chưa được “sử dụng thật sự”, tuy
nhiên khái niệm “sử dụng thật sự” lại chỉ tồn tại ở
các nước EU, không tồn tại ở Việt Nam. Điều này
gây khó khăn cho công tác thực thi bảo hộ sở hữu
trí tuệ.
Về nội dung suy đoán quyền tác giả và quyền
sở hữu, pháp luật nước ta cũng chưa có quy định
liên quan đến vấn đề suy đoán giả định về chủ thể
quyền. Cụ thể, để chứng minh được mình là người
có quyền, các chủ thể phải xuất trình các bằng chứng
cụ thể về quyền (phần lớn bằng văn bản). Trong khi
đó, theo EVFTA, nếu không có bằng chứng ngược
lại thì người có tên trên đối tượng sở hữu trí tuệ liên
quan được mặc định suy đoán là chủ thể quyền mà
không cần bằng chứng nào khác.
Thứ hai,
quản lý thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở
Việt Nam còn lỏng lẻo. Ở nước ta, mặc dù đã có quy
định về việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ nhưng
việc thực thi bảo hộ chỉ dẫn địa lý nói riêng và quản
lý việc sử dụng, ghi nhãn nguồn gốc xuất xứ chưa
thật sự hiệu quả. Hầu như chỉ có biện pháp hành
chính được áp dụng là chủ yếu. Hiệu quả các biện
pháp hành chính cũng tương đối hạn chế, trong khi
biện pháp dân sự theo yêu cầu của các bên liên quan
cũng như việc thực thi liên quan tới nguồn gốc thực
phẩm cũng còn rất hạn chế.
Hoàn thiện chính sách
trước khi EVFTA có hiệu lực
Bối cảnh trên đòi hỏi Việt Nam cần phải hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường theo các chuẩn mực
quốc tế; Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và hệ thống
luật pháp, đảm bảo nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường, thực thi vai trò can thiệp và điều
tiết của chính phủ mà không cản trở, bóp méo sự
phát triển của thị trường; Hoàn thiện và đồng bộ
hóa các thị trường trong nước: Thị trường hàng
hóa và dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường lao
động, thị trường khoa học công nghệ; Đẩy mạnh
cải cách hành chính, xoá bỏ các thủ tục rườm rà,
tạo môi trường thuận lợi và thông thoáng cho các
hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo hướng
thị trường, phù hợp với các cam kết quốc tế nói
chung và của EVFTA nói riêng.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc hoàn thiện cơ
chế quản lý và giám sát các hoạt động đầu tư, bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ mà Việt Nam đã cam kết
trong hiệp định. Trong đó, chú trọng nâng cao công
tác quản trị và quản lý tài chính công của chính
phủ. Sự hài hòa hóa và minh bạch trong các gói
thầu sẽ phân bổ hiệu quả nguồn lực và tiết kiệm
ngân sách, vì các nhà cung cấp có năng lực cạnh
tranh, chi phí thấp sẽ tiếp cận Việt Nam. Việc cải
thiện quản trị khu vực công là tiền đề mang lại lợi
ích hiệu quả kinh tế; Đồng thời, tiếp tục thúc đẩy
quan hệ hợp tác đối tác chiến lược toàn diện, tích
cực trao đổi, học hỏi các phương pháp mới, xây
dựng những quy định phù hợp về sở hữu trí tuệ
với các quốc gia chủ chốt của EU như Đức, Pháp,
Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần phải tăng
cường năng lực quản trị kinh doanh của các giám
đốc và cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp; Bồi
dưỡng khả năng kinh doanh quốc tế và nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp,
nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cần phải tăng
cường áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế vào hoạt động
sản xuất kinh doanh và dần hình thành thói quen sử
dụng tư vấn pháp lý...
Nhìn chung, Hiệp định EVFTA là một trong hai
Hiệp định thế hệ mới lớn nhất và dự báo sẽ ảnh
hưởng tới thể chế pháp luật và kinh tế của nước ta.
Do vậy, Nhà nước cũng như các DN Việt Nam cần
thiết phải nghiêm túc nghiên cứu và triển khai hiệu
quả những giải pháp đột phá, qua đó tạo bước đệm
tốt nhất trên lộ trình tiến tới Hiệp định EVFTA chính
thức có hiệu lực vào năm 2018.
Tài liệu tham khảo:
1. TS Nguyễn Thị Thu Trang,2016, Báo cáo “Rà soát pháp luật Việt Nam với các
cam kết của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU về sở hữu trí tuệ“;
2. PGS., TS Nguyễn An Hà, 2015, FTA Việt Nam - EU: Cơ hội, thách thức và đối
sách của Việt Nam;
3. Ủy ban Tư vấn về Chính sách Thương mại Quốc tế - VCCI, 2011, Phân tích tác
động của FTA Việt Nam - EU đối với một số ngành có sản phẩm nhập khẩu
của Việt Nam.
Trong khi các doanh nghiệp, người tiêu dùng
Việt Nam còn khá thờ ơ với sở hữu trí tuệ, thì
đây lại là yêu cầu đặt lên hàng đầu của những
nhà đầu tư châu Âu khi đặt vấn đề hợp tác với
Việt Nam. Thậm chí, đòi hỏi về bảo hộ sở hữu
trí tuệ của nhà đầu tư châu Âu còn cao hơn đòi
hỏi về quyền sở hữu trí tuệ trongWTO.
1...,20,21,22,23,24,25,26,27,28,29 31,32,33,34,35,36,37,38,39,40,...122
Powered by FlippingBook