TÀI CHÍNH -
Tháng 3/2015
119
số vốn đăng ký hơn 242 triệu USD… Có rất nhiều
nguyên nhân nhưng tựu chung vẫn là do: Cơ chế,
chính sách khuyến khích đầu tư và liên kết vùng
còn nhiều hạn chế và chưa đồng bộ làm ảnh hưởng
rất đến môi trường đầu tư của vùng; Công tác quy
hoạch và quản lý quy hoạch để phát triển bền vững
trong nông nghiệp còn hạn chế; Người dân vẫn còn
giữ thói quen sản xuất theo kiểu truyền thống tự
phát, nhỏ lẻ. Chuỗi liên kết trong sản xuất – chế
biến – tiêu thụ sản phẩm còn lỏng lẻo và chưa có
các “kênh” phân phối hiệu quả cho các sản phẩm
nông nghiệp Việt Nam...
Hơn nữa, lúa gạo, thủy sản và cây ăn trái - những
thế mạnh của khu vực ĐBSCL luôn đối mặt với
nhiều rủi ro như rủi ro chịu tác động trực tiếp bởi
các yếu tố bất lợi của môi trường; rủi ro khi các nước
nhập khẩu sử dụng các hàng rào kỹ thuật thương
mại như chống bán phá giá, chống trợ cấp…
Giải pháp nâng cao chuỗi giá trị nông sản
Để khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng
và lợi thế của vùng, phát triển theo hướng bền vững,
nhất là nâng cao liên kết trong chuỗi giá trị nông
sản, thời gian tới ĐBSCL cần tạo được sự hấp dẫn
thu hút các nguồn lực từ bên ngoài và tập trung vào
một số nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất,
phát huy cao độ sức mạnh liên kết vùng
từ góc độ một không gian kinh tế thống nhất, gắn
liền với tiến trình đô thị hóa và chú trọng bảo vệ môi
trường sinh thái. Đồng thời, tiếp tục rà soát, điều
chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp,
nhất là công nghiệp chế biến vùng ĐBSCL. Trong
đó, cần chú trọng đến việc phân công vai trò, nhiệm
vụ giữa các tỉnh trong vùng, hài hòa với sự phát
triển chung của vùng và của cả nước.
Thứ hai,
tiến hành chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp
để đến năm 2020 vùng ĐBSCL cơ bản có nền nông
nghiệp hàng hóa quy mô lớn, tập trung, có sức cạnh
tranh cao, hiệu quả và bền vững gắn với công nghiệp
chế biến. Đồng thời, ứng dụng công nghệ cao, công
nghệ sinh học vào sản xuất nông lâm nghiệp nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; xây dựng
thương hiệu một số sản phẩm có lợi thế so sánh của
Vùng như lúa, thủy sản, trái cây...
Thứ ba,
xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các
tỉnh để phát huy tiềm năng, thế mạnh, nắm bắt cơ
hội và hạn chế tối đa cạnh tranh cục bộ, để tránh
tình trạng các địa phương chạy theo lợi ích cục bộ
địa phương làm tổn hại tới lợi ích chung của vùng,
của cả nước. Đồng thời, cân đối các nguồn lực để tập
trung phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế và hạ tầng xã hội làm động lực để phát triển
kinh tế - xã hội của vùng. Đầu tư tập trung vào các
khu hậu cần nghề cá, chế biến thủy sản, logistic…
nhằm góp phần hình thành chuỗi sản xuất nông
nghiệp giá trị gia tăng cao, thu hút đầu tư nước
ngoài đổi mới công nghệ vào lĩnh vực sau thu hoạch
và chế biến nông, thủy sản.
Thứ tư,
xúc tiến cơ cấu điều hành vùng; Lôi
kéo các ngân hàng tham gia vào mối liên kết chiến
lược giữa ngân hàng – doanh nghiệp – nông dân.
Các ngân hàng cần linh hoạt hơn nữa trong việc
xem xét giãn nợ và cho vay mới để hỗ trợ nông
dân trong tình hình nông sản chưa tiêu thụ được.
Đặc biệt, cần ưu tiên tăng hạn mức cho vay với các
khách hàng là doanh nghiệp truyền thống như các
doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu có uy tín trong
việc vay – trả nợ.
Thứ năm,
đẩy mạnh liên kết giữa doanh nghiệp
– doanh nghiệp và nông dân – nông dân, để từ
đó thúc đẩy nông dân lẫn doanh nghiệp cùng
tăng cường liên kết với nhau để nâng cao chuỗi
giá trị nông sản. Qua đó, thúc đẩy xây dựng
những vùng nguyên liệu, ứng dụng tốt những
thành tựu khoa học kỹ thuật để có thể kiểm soát
được số lượng lẫn chất lượng và mang lại sự
phát triển bền vững.
Thứ sáu,
cải cách triệt để các thủ tục hành chính,
đặc biệt là các thủ tục liên quan đến đất đai, xây
dựng, thuế, hải quan… ở tất cả các khâu, các cấp.
Đồng thời, nhanh chóng cải thiện và nâng cao năng
lực cạnh tranh cấp tỉnh và khu vực, giảm thiểu thời
gian và chi phí cho doanh nghiệp khi tham gia đầu
tư, kinh doanh vào khu vực này; Xây dựng chiến
lược đào tạo các ngành, nghề phù hợp với yêu cầu
phát triển và nhu cầu của thị trường; đẩy mạnh đào
tạo nghề tại khu vực nông thôn, vùng tập trung
đồng bào dân tộc; gắn đào tạo nghề với giải quyết
việc làm và xuất khẩu lao động…
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Bộ Công thương, Kỷ yếu
đầu tư xúc tiến thương mại – đầu tư nông nghiệp – nông thôn vùng Đồng
bằng sông Cửu Long, Năm 2014;
2. Các website: tapchitaichinh.vn, cpv.org.vn, pcivietnam.org, mard.gov.vn…
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong
giai đoạn 1993-2014, tổng giá trị vốn ODA cho
vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đạt khoảng
5,7 tỷ USD, chiếm 8,2% so với tổng nguồn vốn
ODA của cả nước. Trong đó, các dự án ODA
đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm
khoảng hơn 500 triệu USD.