14
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
đảo lớn như: Côn Đảo, Phú Quốc, Trường Sa, Phú
Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Vân
Đồn… đã được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ
thống giao thông, mạng lưới điện, thông tin liên lạc,
cung cấp nước ngọt, trường học, bệnh xá, bố trí lại
dân cư, tham gia vào phát triển kinh tế, nông nghiệp,
du lịch, công nghiệp dầu khí có bước phát triển
nhanh; đồng thời, đảm bảo tốt công tác quốc phòng
an ninh, hình thành hệ thống các khu công nghiệp,
các cảng biển, cảng cá, khu du lịch từ Quảng Ninh
cho đến Cà Mau…
Tuy nhiên, có thể đánh giá một cách tổng thể,
sự phát triển của kinh tế biển, đảo ở nước ta chưa
xứng tầm với các điều kiện và lợi thế sẵn có. Quy
mô kinh tế biển của Việt Nam chỉ đạt khoảng hơn
10 tỷ USD, trong khi sản lượng kinh tế biển của thế
giới ước 1.300 tỷ USD. Theo ước tính, quy mô kinh
tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân
đạt khoảng 47- 48% GDP cả nước, trong đó GDP của
kinh tế “thuần biển” mới đạt khoảng 20-22% tổng
GDP cả nước. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển
và hải đảo tuy đã được quan tâm đầu tư mới nhưng
còn yếu kém. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún,
mạng lưới tàu thuyền còn lạc hậu... Các cảng biển,
mạng lưới vận tải đường không ở các vùng ven biển
và trên một số đảo còn nhỏ bé, chưa đáp ứng được
nhu cầu. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học -
công nghệ biển, đào tạo nhân lực cho kinh tế biển,
các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo thời thiết, thiên
tai, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... còn
nhỏ bé, trang bị thô sơ. Ngành Du lịch biển vẫn thiếu
những sản phẩm dịch vụ biển, đảo đặc sắc có tính
cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế, chưa có các
Kinh tế biển phát triển chưa xứng tầm
Việt Nam là một trong những nước có lợi thế về
biển, có vị trí địa lý thuận lợi nằm trên đường hàng
hải quốc tế, có cảng biển sâu, có điều kiện để phát
triển hàng hải, hàng không, du lịch biển, đánh bắt,
nuôi trồng thủy hải sản…Với chiều dài bờ biển 3.260
km, 1 triệu km2 vùng biển kinh tế đặc quyền rộng
gấp 3 lần diện tích đất liền, có vị trí địa chính trị hết
sức quan trọng với hơn 3.000 hòn đảo. Cả nước có 28
tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương có biển (trong
đó có 10 tỉnh và thành phố có hải đảo, quần đảo) với
tổng diện tích 208.560 km2 chiếm 41% diện tích cả
nước và 41,2 triệu dân chiếm gần một nửa dân số
Việt Nam.
Xuất phát từ những tiềm năng, lợi thế của biển đảo
và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền
an ninh và môi trường biển, Hội nghị lần thứ 4 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã ban hành
Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020 với mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia mạnh
từ biển, giàu lên từ biển theo hướng phát triển bền
vững, phấn đấu đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP;
55-60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; giải
quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện thêm một bước
đáng kể đời sống cho nhân dân vùng biển và ven biển.
Để thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, từ năm
2008 Chính phủ đã ban hành và phê duyệt nhiều
nghị quyết và quyết định trong chiến lược khai thác,
sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường
biển. Các ngành, các cấp, các doanh nghiệp đã xây
dựng chiến lược, quy hoạch, chương trình hành động
cho từng lĩnh vực và ở trên địa bàn của mình bước
đầu triển khai có những kết quả đáng khích lệ. Các
MỘT SỐGIẢI PHÁPPHÁTTRIỂNKINHTẾBIỂNBỀNVỮNG
NGÔ BÌNH THUẬN
Biển và hải đảo ngày càng trở thành nguồn lực kinh tế to lớn, có ý nghĩa quan trọng về an ninh, quốc
phòng đối với bất kỳ quốc gia nào có biển. Vươn ra biển, khai thác đại dương đã trở thành khẩu hiệu hành
động mang tính chiến lược của thế giới. Đối với Việt Nam, trong tương lai gần, ngành kinh tế biển giữ vai
trò chủ yếu để đảm bảo cho nhu cầu đời sống của nhân dân, đảm bảo cho dân tộc ta giàu mạnh và phát
triển. Do đó, cần phải nhìn nhận kinh tế biển, đảo một cách toàn diện, phát triển kinh tế biển, đảo theo
hướng bền vững, bảo đảm quyền lợi lâu dài của đất nước, đưa nước ta trở thành quốc gia giàu mạnh về
biển, đảo, bảo đảm vững chắc chủ quyền trên biển.
•
Từ khóa: Kinh tế biển, phát triển, bền vững, biển, hải đảo, chiến lược.