TCTC ky 1 thang 9-2016 - page 57

TÀI CHÍNH -
Tháng 9/2016
59
đến chấp nhận rủi ro của DN. Bắt đầu là h trợ thuế
cho tự thuê mướn khi thuế suất TNDN nhỏ hơn
thuế suất TNCN biên.
Chấp nhận rủi ro tự thân bị ảnh hưởng bởi cấu
trúc thuế trong chừng mực lãi và l chịu các thuế
suất khác nhau. Nếu DN có thể chuyển đổi mô hình
tổ chức kinh doanh của mình, hay ít nhất là chuyển
đổi lãi hoặc l giữa cơ sở thuế TNDN và TNCN, khi
đó sự khác biệt trong thuế suất TNDN và TNCN sẽ
h trợ cho việc chấp nhận rủi ro. Cụ thể, khi thuế
suất TNCN cao hơn thuế suất TNDN, DN sẽ báo cáo
l cho các hoạt động chịu thuế TNCN, và báo lãi cho
hoạt động chịu thuế TNDN.
Cho đến nay, thuế giá trị gia tăng (GTGT) chưa
được đề cập nhiều. Về mặt lý thuyết, thuế GTGT
là thuế tỷ lệ trên đầu ra thuần, vì vậy sẽ trung lập
theo các tranh luận bên trên. Tuy nhiên, trong thực
tế một DN với GTGT âm do các dự án không hiệu
quả sẽ rất khó khăn trong việc nhận hoàn thuế từ
chính phủ. Trong chừng mực không có thực tế bù l
theo thuế GTGT, nghĩa là đầu ra thuận lợi sẽ bị đánh
thuế, còn đầu ra không thuận lợi sẽ không được tiết
kiệm bởi thuế, một thuế suất GTGT cao sẽ không
khuyến khích chấp nhận rủi ro.
Ảnh hưởng của một số chính sách khác
Nhiều chính sách khác của chính phủ có thể ảnh
hưởng đến tỷ lệ hoạt động DN. Chính phủ có thể sử
dụng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan để bảo
hộ các ngành hiệu hữu được ưu đãi, qua đó đặt các
ngành khác vào mất lợi thế cạnh tranh. Các rào cản
gia nhập nêu trên càng lớn, số lượng hoạt động DN
Tổng quan nghiên cứu
Thuế và tích lũy nhân tố
Theo trường phái Tân cổ điển, tăng trưởng chỉ
phụ thuộc vào tích lũy vốn vật chất và vốn nhân
lực. Trong dài hạn, bất cứ cấu trúc thuế nào cũng
tạo ra một ty số cân bằng giữa lao động và vốn và
một mức độ cân bằng về giáo dục trên một lao động.
Những thay đổi nào trong chính sách thuế sẽ tạo
ra những gia tăng trong đầu tư vào vốn vật chất
và vốn nhân lực? Theo Hall và Jorgenson (1967) và
nhiều nghiên cứu sau đó về thuế và tỷ lệ vốn đầu tư,
thuế suất hiệu lực thấp hiện hành trên đầu tư mới
sẽ tạo ra tăng trưởng nhanh hơn trong ngắn hạn,
do bùng nổ đầu tư đáp ứng với thuế suất thấp tạm
thời. Biến đo lường cho hiệu ứng này là thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN).
Tác động của thuế lên đầu tư vào vốn nhân lực thì
phức tạp hơn. Trostel (1993) chứng minh rằng thuế
suất thu nhập cá nhân (TNCN) cố định không ảnh
hưởng đến động cơ học tập tự thân, bởi vì chính phủ
sẽ phân phối đồng đều những thu nhập quá khứ và
tương lai từ giáo dục. Tuy nhiên, như Heckman và ctg
(1998) nhấn mạnh, một thuế suất lũy tiến sẽ không
khuyến khích giáo dục, bởi vì tiết kiệm từ thuế khi đi
học không cân đối được với hiện giá của thuế phải trả
trong tương lai từ thu nhập tăng thêm. Tác động dự
báo của thuế TNCN lên giáo dục vì vậy không rõ ràng.
Thuế và chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp
Nghiên cứu của Cullen và Gordon (2002) chỉ ra
nhiều khả năng khác nhau, qua đó thuế ảnh hưởng
TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ VÀ BẢOHIỂMXÃHỘI
ĐẾNTĂNGTRƯỞNG KINHTẾ
PHẠM QUỐC VIỆT, LƯƠNG QUỐC TRỌNG VINH, HỒ THU HOÀI
- Đại học Tài chính – Marketing
Bài nghiên cứu được phát triển từ nghiên cứu của Lee và Gordon (2005) về mối quan hệ giữa cấu
trúc thuế và tăng trưởng kinh tế, bổ sung thêm biến đại diện cho chính sách bảo hiểm xã hội (tỷ
lệ đóng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp và của người lao động) trên mẫu 35 quốc gia châu Á,
giai đoạn nghiên cứu từ 2006 - 2015 cho cấu trúc thuế và từ 2009-2015 cho chính sách bảo hiểm
xã hội. Kết quả nghiên cứu một mặt bổ sung các bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa cấu
trúc thuế và bảo hiểm xã hội với tăng trưởng, mặt khác là cơ sở cho các gợi ý chính sách tài khóa.
Từ khóa: Cấu trúc thuế, bảo hiểm xã hội, tăng trưởng kinh tế.
1...,47,48,49,50,51,52,53,54,55,56 58,59,60,61,62,63,64,65,66,67,...86
Powered by FlippingBook