So ky 2 thang 5 - page 44

42
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
trên TTCK, hỗ trợ các NĐT ra quyết định đầu tư
hợp lý, mang lại suất sinh lợi cao cho NĐT và đó
cũng là cách giúp cho các công ty tăng thêm nguồn
vốn nhờ vào kênh huy động trên TTCK, góp phần
thúc đẩy phát triển TTCK nói riêng và nền kinh tế
Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, còn một
số hạn chế là tất cả các yếu tố đều được lấy từ BCTC
của các công ty. Mặc dù các BCTC này đã được kiểm
toán bởi các công ty kiểm toán độc lậm nhưng dữ liệu
nghiên cứu phụ thuộc hoàn toàn vào dữ liệu sổ sách
từ các BCTC sau kiểm toán nên vấn đề về thông tin
bất cân xứng xảy ra là tất yếu và sẽ ảnh hưởng đến
các kết luận của nghiên cứu. Theo khảo sát lý thuyết
và các công trình nghiên cứu trước cho thấy, ngoài
các yếu tố nội tại thuộc về các đặc tính của công ty,
còn có các yếu tố bên ngoài có thể có sự tác động
đến suất sinh lợi như lãi suất, t giá, lạm phát, tăng
trưởng GDP… mà mô hình nghiên cứu chưa đề cập
tới. Hướng nghiên cứu tiếp theo là mở rộng nghiên
cứu trên TTCK trong khu vực để có thể đánh giá
chính xác hơn tác động của các thông tin công bố trên
BCTC tác động đến suất sinh lợi chứng khoán; Có thể
xem xét bổ sung các yếu tố khác như lãi suất, t giá,
lạm phát, tăng trưởng GDP… để tăng tính tổng quát
cho mô hình, đem lại mức độ giải thích cao hơn và
toàn diện hơn.
Tài liệu tham khảo:
1. Lâm Huỳnh Phương (2013), Ảnh hưởng của việc luân chuyển kiểm toán
viên đến chất lượng báo cáo tài chính tại Việt Nam. Luận văn thạc sĩ. Đại
học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh;
2. Trần Thị Thu Thảo (2014), Nghiên cứu thưc nghiệm mối quan hệ giữa một
số đặc điểm của công ty kiểm toán và kiểm toán viên đến hành vi điều chỉnh
lợi nhuận tại công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam. Luận văn thạc sĩ. Đại học
Kinh tế TP. Hồ Chí Minh;
3. Võ Xuân Vinh, Lê Thị Kim Phượng (2014), “Biến động thu nhập bất thường,
tính thanh khoản và tỷ suất sinh lời cổ phiếu khi công bố báo cáo tài chính
trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển;
4. Nguyễn Anh Phong (2015), Tỷ suất lợi nhuận và rủi ro các cổ phiếu
niêm yết trên TTCK Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Quốc gia
Tp. Hồ Chí Minh;
5. Nguyễn Thị Cành và Lê Văn Huy (2013), “Đo lường mối quan hệ giữa lợi
nhuận và rủi ro cổ phiếu ngân hàng trên TTCK Việt Nam”. Tạp chí Công nghệ
Ngân hàng, ISSN: 1859-3682. S. 89;
6. Nguyễn Thị Kim Yến (2011), Efficient Market and Signaling Hypothesis
on Vietnam Stock Exchange 2006-2009, Master of Science in Finance and
Accounting, The Department of Finance and Accounting, The College of
Buskerud-Norway;
7. Shukairi Nori Mousa. (2015), ‘The effect of financial statement disclosure
on stock prices on industrial shareholding companies’, European Journal
Erlynda of Business and Social Sciences, ISSN : 2235-767X.
sóng. Hơn nữa, quy mô của các công ty niêm yết
cũng là điều quan trọng trong các quyết định đầu
tư. Kết quả nghiên cứu cho thấy, quy mô công ty
có tác động ngược chiều đến suất sinh lợi. Điều này
một lần nữa cho thấy, việc tăng trưởng quy mô công
ty cũng đồng nghĩa với những khó khăn trong việc
quản lý, điều hành cũng tăng lên, việc quản lý hiệu
quả các khoản chi phí trong điều kiện quy mô càng
tăng lên cùng với việc sử dụng các tài sản một cách
có hiệu quả là điều rất khó khăn.
Trong điều hiện nền kinh tế hiện nay, việc mở
rộng quy mô mà vẫn hoạt động tốt là khó khăn vì
sẽ đưa công ty đến các tình huống như: chi phí sản
xuất tăng cao, sử dụng không hiệu quả các tài sản...
sẽ có tác động tiêu cực đến lợi nhuận, hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp. Điều này sẽ có tác động xấu
đến giá chứng khoán và t suất sinh lời cổ phiếu. Vì
vậy, việc các NĐT lựa chọn cổ phiếu của các công ty
có xu hướng mở rộng quy mô không phải lúc nào
cũng mang lại hiệu quả với suất sinh lời mong đợi.
Một doanh nghiệp nhỏ, hoặc vừa, khi được điều
hành và quản lý tốt cũng nên cân nhắc đầu tư vì rất
có thể mang lại những hiệu quả với suất sinh lời gia
tăng và ổn định.
Đối với các công ty niêm yết:
Các nhà quản trị công
ty cần lưu ý trong quá trình công bố BCTC, việc lựa
chọn các công ty kiểm toán lớn chưa hẳn thu hút
NĐT, nhất là đối với các NĐT quan tâm đến sự gia
tăng của suất sinh lợi. Việc công bố BCTC cũng cần
phải lưu tâm vì các thông tin được công bố rất được
các NĐT để tâm, bên cạnh đó NĐT nào khi mua
cổ phiếu của công ty đều mong chờ suất sinh lợi
cao trong tương lai. Do đó, việc nâng cao quản lý,
điều hành và nắm bắt các cơ hội kinh doanh đem
lại hiệu quả trong sản xuất kinh doanh là điều quan
trọng nhất. Việc bảo mật thông tin tránh rò rỉ thông
tin trước khi công bố BCTC cũng là điều đáng lưu
tâm đối với các nhà quản lý. Không phải lúc nào
mở rộng công ty cũng đem lại suất sinh lợi cao, mà
các nhà quản trị công ty cần quản lý có hiệu quả các
nguồn lực hiện có trong tình hình nền kinh tế hiện
nay cũng đã giữ vững được niềm tin vào sự gia tăng
suất sinh lợi của các NĐT.
Đối với các cơ quan quản lý:
Kết quả nghiên cứu
trong và ngoài nước đều cho thấy các thông tin
công bố trên BCTC được các NĐT sử dụng rất
nhiều, nhất là các yếu tố lợi nhuận. Đây là cơ sở
cho những người tham gia thị trường chứng khoán
có thể phân tích, đồng thời cũng là kênh đưa ra
những lời khuyến nghị tốt, các chế tài đối với các
công ty sai phạm trong việc lập các BCTC. Việc làm
này đồng nghĩa với cần việc minh bạch thông tin
1...,34,35,36,37,38,39,40,41,42,43 45,46,47,48,49,50,51,52,53,54,...110
Powered by FlippingBook