TCTC so 3 bong cuoi - page 22

26
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỚC SỨC ÉP ĐỔI MỚI TỪ CÁC HIỆP ĐỊNH FTA
Kiên quyết bảo vệ các lợi ích chính đáng của DN
và nền kinh tế trên bàn đàmphán
Về thương mại hàng hóa: Các nhà đàm phán chỉ
cần yêu cầu được các đối tác cắt giảm thuế đối với
những dòng thuế đang có mức bảo hộ cao và hàng
hóa mà Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu lớn trong
khi sẵn sàng mở của thị trường nội địa, trừ các vấn đề
nhạy cảm như an ninh, quốc phòng, xã hội.
- Về mở cửa thị trường dịch vụ và đầu tư: Nên
có thái độ cởi mở và mạnh dạn để thúc đẩy quan hệ
thương mại với các đối tác đặc biệt là Mỹ.
- Về quy định liên quan đến sở hữu trí tuệ: Cần
có thái độ cứng rắn để TPP không đi quá xa so với
Hiệp định về các vấn đề liên quan đến thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) và gây tổn hại
đến năng lực cạnh tranh của DN cũng như khu
vực nông nghiệp nông thôn vốn rất nhạy cảm đối
với các quy định bảo hộ sở hữu trí tuệ đang được
Mỹ đề xuất.
Cải cách Luật Lao động
Hiện nay, vấn đề lao động được đặt ra trong đàm
phán TPP bao gồm: quyền thương lượng của người
lao động đối với giới chủ sử dụng lao động, về
lương, ngày làm việc, điều kiện lao động, điều kiện
về bảo hiểm, quyền trong việc ký kết các hợp đồng
lao động… Với vai trò là thành viên, một bên đàm
phán bình đẳng như tất cả các thành viên khác, Việt
Nam nên tập hợp nhóm các chuyên gia trong những
lĩnh vực chủ chốt cần sửa đổi quy định. Bên cạnh đó,
việc cải thiện pháp luật lao động, tiến dần tới các tiêu
chuẩn lao động tiên tiến của quốc tế nên là việc cần
phải làm và thường xuyên làm.
Tiếp tục xử lý vấn đề nguồn gốc xuất xứ
hàng hoá xuất khẩu
Theo điều khoản về xuất xứ hàng hóa được
đề xuất ở TPP, các sản phẩm xuất khẩu trong các
nước thành viên phải có xuất xứ nội khối mới được
hưởng thuế suất ưu đãi 0%. Để gia tăng hàng hoá
xuất khẩu vào các đối tác thương mại lớn, Việt Nam
chỉ có hai sự lựa chọn: hoặc phải nhập khẩu nguyên
liệu, phụ kiện đầu vào từ các đối tác TPP, hoặc phải
tự mình xây dựng và phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ phục vụ cho các ngành sản xuất sản
phẩm xuất khẩu. Đây là bài toán đặt ra phải tìm lời
giải cho kinh tế Việt Nam nói chung. Sau cùng, Việt
Nam phải tiếp tục xử lý nguồn gốc xuất xứ hàng
hoá xuất khẩu giữa các thành viên TPP.
Tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật về môi trường, về
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Chính phủ Việt Nam cần nỗ lực cao hơn để việc
thực hiện pháp luật về môi trường ở Việt Nam đi vào
nề nếp, đồng thời có các biện pháp hỗ trợ phù hợp để
các DN Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu về bảo
vệ môi trường, đem lại lợi ích lâu dài.
Việt Nam đã và đang tiêu chuẩn hóa và thực hiện
các cam kết về khung pháp luật bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ. Trong đó có hai vấn đề cơ bản mà Việt Nam
phải thực hiện trong hoạt động này là: có một khung
pháp lý về sở hữu trí tuệ hoàn thiện, đầy đủ và đạt
tiêu chuẩn và Việt Nam phải có một hệ thống thực thi
quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.
Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ
Để tận dụng lợi ích và giảm thiểu những bất lợi
do Việt Nam tham gia vào TPP, trong những năm
tới, Việt Nam cần đi sâu chuyên môn hoá, tập trung
mọi nguồn lực ưu tiên phát triển lĩnh vực công
nghiệp hỗ trợ, không phát triển công nghiệp dàn
trải để một mặt, tạo nền móng vững chắc cho các
ngành sản xuất khác, mặt khác, góp phần nâng cao
giá trị gia tăng, hưởng lợi ngay từ chuỗi đầu vào của
quá trình sản xuất.
Như vậy, có thể thấy việc xuất hiện TPP là một tất
yếu khi có rất nhiều vấn đề mà các FTA hiện tại chưa
giải quyết được. Với Việt Nam, cơ hội có nhiều nhưng
thách thức cũng không nhỏ. Điều này đòi hỏi sự đầu
tư công sức của các nhà hoạch định chính sách, các
nhà nghiên cứu và bản thân mỗi DN để tìm được
hướng đi phù hợp nhất.
Tài liệu tham khảo:
1. Cheoung, I. (2013), “Negotiations for TPP agreement: evaluation and
implications for East Asian Regionalism”, ADB working paper series;
2. Deardorff, A. (2013), “Trade implications of the TPP for ASEAN and other Asian
countries”, University of Michigan;
3. Nguyễn Thị Tường Anh (2013), “DN Việt Nam phải làm gì khi tham gia TPP?”,
Tạp chí Diễn đàn DN, Số 5, 2013;
4. Hoàng Văn Châu và các tác giả (2014), “Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương – TPP và vấn đề tham gia của Việt Nam”, NXB Bách khoa Hà Nội, 2014;
5. Phạm Chi Lan (2012), Tham luận tại hội thảo “Hiệp định Đối tác Xuyên Thái
Bình Dương và Ý nghĩa đối với DN”, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam, 2012;
6. Lê Quốc Phương (2013), “TPP và những tác động đối với xuất khẩu và thu hút
đầu tư của Việt Nam”, Tạp chí Tài chính Số 12, 2013.
Lợi ích từTPP được kỳ vọng ở việc gia tăng xuất
khẩu hàng hóa nhờ được hưởng các mức thuế
suất ưu đãi (0-5%) ở các thị trường đối tác. Mức
thuế như trên sẽmang lại lợi thế cạnh tranh lớn
và triển vọng sáng sủa cho nhiều ngành hàng,
đặc biệt là dệt may, da giày, thủy sản, đồ gỗ.
1...,12,13,14,15,16,17,18,19,20,21 23,24,25,26,27,28,29,30,31,32,...144
Powered by FlippingBook