36
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỚC SỨC ÉP ĐỔI MỚI TỪ CÁC HIỆP ĐỊNH FTA
thứ 5. Hàn Quốc đã tận dụng được những cơ hội thị
trường mà các hiệp định đem lại và đạt được tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu sang Chile và ASEAN vượt
trội so với tốc độ tăng trưởng trung bình trên toàn thế
giới, tiêu biểu là với các ngành hàng như ô tô, máy
móc, thiết bị điện tử, thép và các sản phẩm từ thép
cũng như hoá chất.
Kể từ khi hiệp định thương mại Hàn Quốc – Chile
có hiệu lực, hơn 90% kim ngạch xuất khẩu của Hàn
Quốc sang Chile đều được hưởng mức thuế suất
ưu đãi. Tuy nhiên, với những Hiệp định FTA giữa
Hàn Quốc với Singapore, Liên minh châu Âu (EU)
và ASEAN thì tỷ lệ tận dụng hiệu quả các ưu đãi
lại không được như mong đợi, với tỷ lệ lần lượt là
29,8%, 42,5% và 43,3%.
Để tận dụng hiệu quả hơn nữa cơ hội từ việc dỡ
bỏ các hàng rào thuế quan và khả năng tiếp cận thị
trường, Chính phủ Hàn Quốc đã phối hợp cùng các
hiệp hội ngành nghề để cung cấp các thông tin về
các hiệp định thương mại cho các DN. Bên cạnh đó
là việc đơn giản hoá các thủ tục để cấp chứng nhận
xuất xứ. Có thể nhận thấy, để đạt được tỷ lệ tận dụng
ưu đãi cao như hiệp định thương mại giữa Hàn Quốc
- Chile, nội dung của hiệp định cần phải chú trọng
đến những mặt hàng giao thương chủ lực giữa các
đối tác với nhau.
Với những ngành kinh tế mũi nhọn như sản
xuất ô tô, dù trong các hiệp định song phương với
Mỹ và EU, Hàn Quốc cam kết là sẽ dần được tự do
hoá, tuy nhiên nước này cũng xin kéo dài thời gian
thực hiện cam kết cùng nhiều ngoại lệ nhằm duy
trì bảo hộ cho ngành ở mức độ nhất định trước khi
hoàn toàn mở cửa.
Bài học cho Việt Nam
Là một nước có nền kinh tế đang phát triển, Việt
Nam thường được hưởng các ưu đãi về mặt thời gian
thực hiện các cam kết của các FTA. Trong khoảng thời
gian này, Việt Nam cần đẩy mạnh việc học hỏi kinh
nghiệm từ các nước đối tác, hoàn thiện hành lang
pháp lý, thể chế, chính sách cũng như cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh
của quốc gia để có thể tận dụng tốt những cơ hội mà
các hiệp định thương mại mang lại. Bên cạnh đó, cần
xây dựng chính sách bảo hộ hợp lý là một biện pháp
có tính hiệu quả cao cho các quốc gia khi tham gia
vào các hiệp định tự do hóa thương mại, bao gồm cả
Việt Nam.
Tuy nhiên, việc duy trì hay xoá bỏ chính sách bảo
hộ sản xuất nội địa luôn có tác động hai mặt. Nếu
bảo hộ quá lâu và quá cao sẽ làm cho sản xuất trì trệ.
Song, nếu xoá bỏ bảo hộ quá nhanh sẽ gây khó khăn
cho sản xuất trong nước, hàng nước ngoài sẽ chiếm
lĩnh thị trường nội. Vì vậy, Việt Nam cần xây dựng
chính sách bảo hộ đúng đắn vừa đáp ứng được yêu
cầu của các hiệp định thương mại, vừa bảo đảm cho
các ngành sản xuất trong nước thích nghi, quen dần
với môi trường không có bảo hộ.
Muốn vậy, khi thực hiện các chính sách bảo hộ
chúng ta cần phải chú ý đến các vấn đề sau:
Một là,
chỉ bảo hộ những mặt hàng mà sản xuất
trong nước đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế,
có tiềm năng phát triển về sau, tạo được nguồn thu
ngân sách và giải quyết lao động.
Hai là,
bảo hộ phải được thống nhất thực hiện cho
mọi thành phần kinh tế, kể cả các xí nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
Ba là,
chính sách bảo hộ phải được quy định cho
từng trường hợp, từng thời gian và không bảo hộ
vĩnh viễn cho bất kỳ hàng hóa nào.
Bốn là,
bảo hộ thị trường trong nước nhưng phải
phù hợp với các tiến trình tự do hoá thương mại và
các hiệp định quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Năm 2015 được kỳ vọng sẽ tạo nên một bước
chuyển mình quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam
với việc tham gia sâu và rộng hơn sân chơi quốc tế
khi Việt Nam dần thực hiện các cam kết trong khuôn
khổ các Hiệp định FTA trong ASEAN (AFTA và
ASEAN+). Hy vọng rằng Việt Nam sẽ tận dụng được
các lợi thế và khắc phục được những trở ngại mà các
Hiệp định FTAmang lại khi tham gia vào thương mại
quốc tế.
Tài liệu tham khảo
1. Amstrong, S., 2012, “South Korean trade: beyond ‘free’ trade deals”, truy
cập tại
beyond-free-trade-deals/ ( ngày 25 tháng 2 năm 2015);
2. Brenton, Paul and Miriam Manchin. 2002. “Making EU Trade Agreements
Work: The Role of Rules of Origin.” CEPS Working Document No. 183. Brussels:
Centre for European Policy Studies (March); Cheong, I., Kim, H., Cho, J.,
“Business Use of FTAs in Korea”, RIETI;
3. Francois, J., Manchin, M., Luong, V.T, Le, T.D., Hoang, M.P., Hoang, M.C., 2011,
“Đánh giá tác động tổng thể của tự do hoá thương mại dịch vụ với nền kinh tế
Việt Nam”, MUTRAP – Dự án hộ trợ thương mại đa biên.
Những Hiệp định FTA đã góp phần tự do hoá
nhiều ngành hàng, lĩnh vực kinh tế của Hàn
Quốc như nông nghiệp, sản xuất ô tô và dịch
vụ. Sau khi ký kết, các Hiệp định FTA đã đem lại
những bước tiến đáng kể cho thương mại của
Hàn Quốc. Theo con số thống kê, kim ngạch
thương mại của Hàn Quốc với các nước đối tác
cũng tăng trung bình từ 20 – 31,6%.