So ky 1 thang 6 - page 96

98
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
thẩm định khách hàng và nếu đủ điều kiện sẽ
cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng (nhà
thầu xây lắp). Kết quả của quá trình này là tổ chức
bảo lãnh (NHTM) và khách hàng (nhà thầu xây
lắp) sẽ ký hợp đồng cấp bảo lãnh.
Về nguyên tắc, các điều khoản tại hợp đồng
cấp bảo lãnh là kết quả của sự thỏa thuận giữa
hai chủ thể bình đẳng về mặt pháp lý. Tuy nhiên,
trong thực tế, các NHTM thường xây dựng sẵn
mẫu hợp đồng cấp bảo lãnh để làm cơ sở cho việc
đàm phán ký kết hợp đồng.
Để thực hiện hợp đồng cấp bảo lãnh, NHTM
phát hành cam kết bảo lãnh và chuyển cam kết
bảo lãnh đến bên nhận bảo lãnh (bên mời thầu xây
lắp). Hành động phát hành cam kết bảo lãnh của
NHTM và việc chấp nhận cam kết bảo lãnh của
bên nhận bảo lãnh làm phát sinh hợp đồng thứ
hai – hợp đồng bảo lãnh.
Theo đó, khi đến hạn của nghĩa vụ được bảo
lãnh mà bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa
vụ của họ, trên cơ sở chứng từ hợp lệ do bên nhận
bảo lãnh xuất trình phù hợp với nội dung cam kết
bảo lãnh, NHTM phải thực hiện nghĩa vụ trả thay
cho bên được bảo lãnh. Đồng thời, căn cứ vào nội
dung hợp đồng cấp bảo lãnh, NHTM có quyền
yêu cầu khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả số
tiền đã trả thay.
Như vậy, việc thực hiện hai hợp đồng nêu trên
trong hoạt động bảo lãnh của NHTM đối với trách
nhiệm của nhà thầu trong đấu thầu xây lắp luôn
được tiến hành đồng thời và gắn bó chặt chẽ với
nhau. Tuy nhiên, chúng lại mang tính độc lập với
nhau, thể hiện ở chỗ hợp đồng này vô hiệu không
đương nhiên làm cho hợp đồng kia vô hiệu và
ngược lại. Mặt khác, việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng này không
thể bị phụ thuộc hay chi phối bởi hợp đồng kia và
ngược lại. Tổ chức bảo lãnh (NHTM) với tư cách
là chủ thể cấp tín dụng đồng thời là chủ thể bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả thay cho khách hàng
có hai mối quan hệ pháp luật với hai đối tác khác
nhau và do đó phải hành động độc lập trên cơ sở
quyền và nghĩa vụ trong từng hợp đồng.
Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, một số loại
hình bảo lãnh của các NHTM như: Bảo lãnh dự
thầu, bảo lãnh hợp đồng, bảo lãnh bảo hành…
thường xuyên diễn ra. Cụ thể, ngân hàng với tư
cách là người bảo lãnh cho nhà thầu một khoản
tiền theo quy định, cam kết với chủ đầu tư về việc
thực hiện hợp đồng của nhà thầu. Nếu nhà thầu vi
phạm hợp đồng, gây thiệt hại trong quá trình xây
dựng thì ngân hàng sẽ đứng ra trả tiền cho chủ
đầu tư với số tiền đã bảo lãnh.
Hoạt động bảo lãnh của NHTM đối với trách
nhiệm của nhà thầu trong đấu thầu xây lắp hiện
đang tạo ra nguồn thu không nhỏ cho các NHTM
thực hiện bảo lãnh, nhưng cũng tiềm ẩn không ít
rủi ro. Vấn đề “bảo lãnh của NHTM đối với trách
nhiệm của nhà thầu trong đấu thầu xây lắp” hiện
đang được coi là “một bước chuẩn bị nhỏ” nhưng
chắc chắn phải gặp trong đấu thầu xây dựng. Đây
là vấn đề tiên quyết đảm bảo sự hợp lệ của hồ sơ
dự thầu (căn cứ pháp lý để thực hiện quá trình
đấu thầu).
Tuy nhiên, hiện nay các tranh chấp phát sinh
giữa NHTM (bên bảo lãnh) và khách hàng (bên
được bảo lãnh) và người thụ hưởng (bên nhận bảo
lãnh) ngày càng nhiều cho thấy, pháp luật hiện
hành về hoạt động bảo lãnh bảo hành chưa đáp
ứng được yêu cầu của thực tiễn hội nhập quốc
tế. Thực tế này đòi hỏi yêu cầu hoàn thiện pháp
luật về bảo lãnh của NHTM đối với trách nhiệm
của nhà thầu trong đấu thầu xây lắp, để đáp ứng
quá trình phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế ở Việt Nam đang trở
lên cấp bách.
Xây dựng hành lang pháp lý
rõ ràng, minh bạch, khoa học
Mặc dù có vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nhưng vấn đề
thực thi pháp luật đối với hoạt động bảo lãnh của
NHTM đối với trách nhiệm của nhà thầu trong
đấu thầu xây lắp của Việt Nam hiện nay bộc lộ
nhiều bất cập. Pháp luật về với hoạt động bảo
lãnh của NHTM đối với trách nhiệm của nhà thầu
trong đấu thầu xây lắp cho đến thời điểm hiện
nay chưa được đặt đúng vị trí, chưa phát huy
hết vai trò của nó. Do vậy, bảo lãnh của NHTM
đối với trách nhiệm của nhà thầu trong đấu thầu
xây lắp muốn phát huy được vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển bền
vững cần có một hành lang pháp lý rõ ràng, minh
bạch, khoa học để điều chỉnh các hoạt động diễn
ra trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện.
Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, một số loại
hình bảo lãnh của các NHTM như: Bảo lãnh dự
thầu, bảo lãnh hợp đồng, bảo lãnh bảo hành…
thường xuyên diễn ra. Cụ thể, ngân hàng với
tư cách là người bảo lãnh cho nhà thầu một
khoản tiền theo quy định, cam kết với chủ đầu
tư về việc thực hiện hợp đồng của nhà thầu.
1...,86,87,88,89,90,91,92,93,94,95 97,98,99,100,101,102,103,104,105,...106
Powered by FlippingBook