5.1. So ky 2 thang 12 - page 38

40
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Tiền lương, tiền thưởng là một yếu tố quan trọng
góp phần tạo động lực thúc đẩy người lao động làm
việc nâng cao năng suất lao động. Tiền lương ảnh
hưởng trực tiếp đến mức sống của người lao động.
Phấn đấu nâng cao tiền lương là yêu cầu tất yếu của
người lao động, mục đích này tạo động lực để người
lao động phát triển trình độ và khả năng lao động của
mình. Tiền lương cũng là một trong những công cụ
kinh tế quan trọng nhất trong quản lý lao động, người
ta dùng công cụ này để kích thích thái độ quan tâmđến
lao động. Do đó, tiền lương là một nhân tố mạnh mẽ
để tăng năng suất lao động, hay nói cách khác, đối với
người lao động, tiền lương là khoản thu nhập chính, để
tăng tiền lương họ phải tăng năng suất lao động.
Việc điều chỉnh và đưa ra chính sách tiền lương tối
thiểu là rất quan trọng. Tiền lương tối thiểumà phùhợp
sẽ có tác động tốt đến người lao động với ý nghĩa làm
một khoản thu nhập chính, từ đó bảo đảm được năng
suất lao động ổn định và tăng lên. Trong năm 2015,
Chính phủ Việt Nam đã tăng lương tối thiểu vùng với
mức tăng phụ thuộc vào từng vùng từ 250.000 - 400.000
đồng. Đây là lần tăng lương thứ 4 của Việt Nam trong
vòng 5 nămgần đây nhằmđáp ứng nhu cầu, cuộc sống
của người lao động, mặt khác khuyến khích lao động
tăng năng suất lao động.
Tuy nhiên, theo ILO, trong các nước ASEAN, Việt
Namvẫn thuộc nhóm cómức lương tối thiểu thấp nhất
trong khu vực ASEAN. Mức lương bình quân của Việt
Nam ở mức 3,8 triệu đồng/tháng (181 USD) năm 2015.
Mức lương này chỉ cao hơn Lào (119 USD), Campuchia
(121 USD) và thấp hơn so với nhiều nước trong khu
vực ASEAN như Philippines (206 USD), Thái Lan (357
USD), Malaysia (609 USD), Singapore (3.547 USD).
Ngoài tiền lương, tiền thưởng, các phúc lợi xã hội
cũng góp phần thúc đẩy nâng cao năng suất lao động.
Phúc lợi có thể là tiền, vật chất, chế độ…để động viên
hoặc khuyến khích và đảm bảo anh sinh cho người lao
động. Phúc lợi đóng vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo cũng như góp phần nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho người lao động, từ đó thúc đẩy và nâng
cao năng suất lao động.
Thứ hai,
về đầu tư (nguồn vốn, máy móc thiết bị,
công nghệ sản xuất, lao động…). Đây cũng là yếu tố
tác động mạnh đến năng suất lao động.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô
vừa và nhỏ, nguồn vốn còn hạn hẹp; công nghệ sản
xuất lạc hậu và trung bình; cơ sở vật chất còn nghèo
nàn; trình độ khoa học công nghệ còn chưa cao nếu
không muốn nói là lạc hậu, lỗi thời; trình độ, chất
lượng lao động chưa đạt yêu cầu; chính sách quản
lý còn nhiều bất cập; năng lực cạnh tranh còn thấp…
trong khi các doanh nghiệp nước ngoài có sự hỗ trợ
mạnh về tài chính, đầu tư những máy móc thiết bị,
dây chuyền công nghệ hiện đại, tiên tiến, giúp quá
trình sản xuất diễn ra liên tục, ổn định và nâng cao
được năng suất lao động.
Thứ ba,
trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất còn thấp, lao động thủ công còn nhiều, đặc
biệt là trong ngành nông nghiệp, dẫn đến khă năng
tăng năng suất lao động còn thấp.
Hiện nay, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển
với tốc độ cao, công cụ đưa vào sản xuất ngày càng
hiện đại, đòi hỏi người lao động phải có một trình độ
chuyên môn tương ứng để có khả năng sử dụng, điều
khiển máy móc trong sản xuất. Nâng cao trình độ văn
hoá chuyên môn của con người có ý nghĩa lớn đối với
tăng năng suất lao động. Đây là một yếu tố không thể
thiếu được, bởi vì dù khoa học kỹ thuật ngày càng phát
triển với tốc độ cao và đưa vào sản xuất các loại công
cụ hiện đại, thì càng đòi hỏi người lao động có trình
độ chuyên môn tương ứng. Nếu thiếu người lao động
có trình độ chuyên môn cao thì không thể điều khiển
được máy móc, không thể nắm bắt được các công nghệ
hiện đại.
Việc áp dụng công nghệ sản xuất, trình độ khoa học
công nghệ hiện đại, tiên tiến vào sản xuất cũng ảnh
hưởng không nhỏ tới năng suất lao động. Trong khi
trình độ ứng dụng công nghệ sản xuất của Việt Nam
khá thấp. Năng suất, chất lượng, hiệu quả của từng
ngành cũng như sức cạnh tranh của sản phẩm hàng
hóa phụ thuộc rất lớn vào trình độ công nghệ nhưng
đến nay việc sử dụng công nghệ ở nước ta vẫn còn lạc
hậu và xếp vào loại thấp nhất khu vực ASEAN. Hầu
hết doanh nghiệp Việt Nam sử dụng công nghệ tụt
hậu so với thế giới từ 2 - 3 thế hệ; Gần 80% các loại thiết
bị máy móc đang sử dụng được nhập khẩu từ thời kì
1960 -1970; hơn 75% thiết bị đã quá thời hạn khấu hao
nhưng không được thay thế; trong tổng số thiết bị máy
móc nhập khẩu, có hơn 50% thuộc loại tân trang...
Tài liệu tham khảo:
1. Viện Năng suất Việt Nam (tháng 5/2016), Báo cáo Năng suất Việt Nam2015;
2. Viện Năng suất Việt Nam, Cần làmgì để cải thiện năng suất lao động?
3. NguyễnAnhTuấn-ViệnNăngsuấtViệtNam(Tháng7/2016),Năngsuất laođộng
Việt Nam2015 - Những con số nổi bật.
Mức lương bình quân của Việt Nam ở mức
3,8 triệu đồng/tháng (181 USD) năm 2015.
Mức lương này chỉ cao hơn Lào (119 USD),
Campuchia (121 USD) và thấp hơn so với nhiều
nước trong khu vực ASEAN như Philippines
(206 USD), Thái Lan (357 USD), Malaysia (609
USD), Singapore (3.547 USD).
1...,28,29,30,31,32,33,34,35,36,37 39,40,41,42,43,44,45,46,47,48,...110
Powered by FlippingBook