K2 T3 - page 52

50
TÍN DỤNG - NGÂN HÀNG
thí điểm các dự án kinh doanh năng lượng tái tạo,
xử lý tái chế rác thải môi trường, giảm thiểu các tác
hại từ biến đổi khí hậu mang lại với tổng giá trị lên
đến 2.000 tỷ đồng.
Tháng 7/2016, NHNN cùng với WB đã ký kết
hiệp định pháp lý cho 3 dự án chính sách phát
triển về quản lý kinh tế và năng lực cạnh tranh;
chính sách phát triển về biến đổi khí hậu và tăng
trưởng xanh và dự án cấp nước, xử lý nước thải
đô thị. Tổng giá trị của 03 dự án là 371 triệu USD.
Bên cạnh đó, IFC đã phối hợp với các ngân hàng
của Việt Nam như Techcombank và Vietinbank xây
dựng chương trình tín dụng tiết kiệm năng lượng
dành cho các DN vừa và nhỏ với tổng giá trị gần
63 triệu USD.
Một số ngân hàng lớn như Vietinbank, ACB,
Sacombank... cũng đã triển khai các hoạt động cho
vay có bảo lãnh cho các dự án thân thiệt môi trường
do Quỹ ủy thác tín dụng xanh (GCTF) của Chính
phủ Thụy Sỹ thành lập tại Việt Nam tài trợ.
Nguồn tài chính nhà nước tài trợ cho các dự án
thân thiện môi trường chủ yếu được thông qua các
quỹ như: Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam, Quỹ
bảo vệ môi trường Hà Nội, Quỹ giảm thiểu ô nhiễm
TP. Hồ Chí Minh... Các quỹ này cho các dự án xử lý
chất thải, phòng ngừa khắc phục sự cố môi trường,
triển khai công nghệ thân thiện môi trường...vay
vốn với mức lãi suất ưu đãi.
Nhìn chung, phần lớn nguồn vốn tín dụng tài
trợ cho các dự án xanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn
tài trợ của các tổ chức trên thế giới hoặc một phần
từ nguồn tài chính nhà nước thông qua các quỹ của
Việt Nam, sự đóng góp của các ngân hàng rất nhỏ
bé. Thực tế, việc triển khai các gói tín dụng xanh gặp
phải một số rào cản:
Đối với ngân hàng:
(i) Nhận thức về ngân hàng
xanh, tín dụng xanh của các ngân hàng còn hạn chế;
(ii) Thiếu khung pháp lý hỗ trợ tín dụng xanh, thiếu
cơ chế hợp tác liên ngành, cơ chế động lực cho các
ngân hàng cũng như DN phát triển tín dụng xanh;
(iii) Thiếu các quy định về thẩm định, hệ thống tiêu
chí và cơ chế đánh giá quản lý rủi ro; (iv) Đội ngũ
nhân viên ngân hàng chưa được đào tạo chuyên
sâu, bài bản trong việc thẩm định, đánh giá và quản
lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng;
(v) Chi phí ngân hàng đầu tư lớn, giảm lợi nhuận và
khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong dài hạn,
do các dự án vay vốn tín dụng xanh có quy mô vốn
lớn, thời gian đầu tư dài và rủi ro cao.
Đối với DN:
(i) DN chưa có nhu cầu sử dụng sản
phẩm tín dụng xanh của ngân hàng; (ii) Thiếu các
thông tin về các sản phẩm tín dụng xanh của ngân
hàng, (iii) Thời gian xin cấp tín dụng xanh dài, các
thủ tục vay vốn phức tạp; (iv) Thiếu tài sản đảm bảo
do hầu hết các DN đều là các DN vừa và nhỏ.
Tháo gỡ “nút thắt” tín dụng xanh
Từ những bất cập trong triển khai các gói tín
dụng xanh, việc các cơ quan quản lý, các ngân hàng
và bản thân các DN đề ra các giải pháp tháo gỡ “nút
thắt” tín dụng xanh là rất cần thiết.
- Từ phía cơ quan quản lý:
NHNN cần sớm ban
hành chương trình phát triển ngân hàng xanh với
mục tiêu, giải pháp, lộ trình cụ thể (ví dụ quy định
5% dư nợ cho vay đối với các dự án liên quan đến
môi trường), từ đó tăng cường vai trò của ngân hàng
đối với sự phát triển bền vững của nền kinh tế; Cần
ban hành hướng dẫn và bộ công cụ đánh giá rủi ro
môi trường để các ngân hàng áp dụng. Bên cạnh đó,
cần phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng
cơ chế động lực thúc đẩy tài chính xanh.
- Từ phía các ngân hàng:
Các ngân hàng cần xây
dựng chiến lược, lộ trình phát triển ngân hàng
xanh phù hợp với chiến lược tăng trưởng xanh
của quốc gia và phù hợp với xu thế hội nhập quốc
tế; Xây dựng hệ thống, cơ chế đánh giá quản lý
rủi ro môi trường xã hội trong việc cấp tín dụng.
Việc rà soát, chọn lọc hồ sơ các dựa án cần hết sức
thận trọng để hạn chế rủi ro môi trường xã hội khi
cấp tín dụng.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng cần nâng cao
nhận thức của cán bộ; Xây dựng văn hóa ngân hàng
xanh, tích cực tuyên truyền phổ biến đến khách
hàng về các sản phẩm tín dụng xanh của ngân hàng.
- Từ phía DN:
DN cần tìm hiểu các chính sách ưu
đãi, hỗ trợ về lãi suất, thủ tục vay vốn, tài sản đảm
bảo để tăng cường đầu tư vào các dự án thân thiện
với môi trường; đồng thời, cần nâng cao nhận thức
cũng như có sự kết nối giữa ngân hàng và DN để
tìm kiếm các nhu cầu đầu tư xanh.
Tài liệu tham khảo:
1. TS. Cấn Văn Lực (2016), “Vai trò của ngân hàng xanh trong phát triển kinh
tế bền vững – thực trạng và giải pháp đối với Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Vai
trò ngân hàng xanh trong xanh hóa nền kinh tế, tháng 9/2016;
2. PGS., TS. Nguyễn Thị Minh Huệ (2016), “Tiếp cận tài chính xanh của các DN
Việt Nam: Khó khăn và thuận lợi”, Kỷ yếu Hội thảo “Vai trò của ngân hàng
xanh trong xanh hóa nền kinh tế”;
3. Chỉ thị 03/CT – NHNN 2015 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản
lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng;
4. ThS. Trần Trọng Phong, Thiều Thùy Dương (2016), Phát triển dòng tín dụng
xanh trong bối cảnh hệ thống ngân hàng “xanh hóa”, Tạp chí Ngân hàng
số 5/2016;
5. Nguyễn Lê Hằng (2011), Giới thiệu về Quỹ ủy thác tín dụng xanh (GCTF).
1...,42,43,44,45,46,47,48,49,50,51 53,54,55,56,57,58,59,60,61,62,...122
Powered by FlippingBook