K2 T3 - page 58

56
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
vẫn chưa tiếp cận nguồn vốn chính thức, buộc họ
phải vay mượn từ nơi khác với lãi suất cao để đáp
ứng nhu cầu.
Hơn nữa, nếu tính bình quân tỷ lệ nghèo bình
quân chiếm 17,2% dân số thì số lượt khách hàng
trong diện nghèo vay trên chưa được 50%. Mức cho
vay bình quân 50 triệu đồng/hộ nghèo như hiện nay
khó giải quyết bài toán giảm nghèo bền vững, dẫn
đến 33% hộ thoát nghèo tái nghèo. Như vậy, vấn đề
quan trọng trong giảm nghèo hiện nay là tìm được
những nguồn vốn chính thống, bền vững cho công
tác giảm nghèo và phát triển các tổ chức cung cấp
tín dụng vi mô cũng như dịch vụ TCVM nhằm góp
phần giảm nghèo bền vững.
Nâng cao vai trò của tổ chức tài chính
vi mô trong công tác giảm nghèo ở Việt Nam
Thực tế cho thấy, vấn đề đặt ra là phải phát triển
các tổ chức TCVM như thế nào để đảm bảo tính hiệu
quả kinh tế xã hội Từ thực tế công tác xóa đói giảm
nghèo và nguồn vốn để tài trợ giảm nghèo ở Việt
Nam thời gian qua, các giải pháp nâng cao vai trò
của tổ chức TCVM gồm:
Thứ nhất,
cần xây dựng lộ trình chuyển đổi
các tổ chức TCVM, nhất là các tổ chức bán chính
thức thành chính thức để TCVM trở thành một
hệ thống vững mạnh theo định hướng thị trường,
nằm trong hệ thống tài chính Việt Nam, dưới sự
quản lý và cấp phép của đầu mối duy nhất là
NHNN, đảm bảo các hộ nghèo và hộ thu nhập
thấp có khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính
đầy đủ, chính thức.
Thứ hai
, về chủ trương phát triển, cần tiến tới
việc giảm dần các chính sách hỗ trợ trực tiếp từ
ngân sách nhà nước hay từ các quỹ tài trợ, chuyển
sang cho vay có hoàn trả để tăng tính tự chủ của hộ
nghèo, đồng thời tạo tích lũy phát triển nguồn vốn
bền vững cho chính tổ chức TCVM.
Thứ ba,
một trong những yếu tố hạn chế phát
triển các tổ chức TCVM thời gian qua là việc tổ chức
vận hành khá đơn giản, lỏng lẻo, không tuân thủ các
quy chế quy định trong lĩnh vực tiền tệ. Phần lớn
các tổ chức TCVM bán chính thức chịu sự quản lý
của chính quyền địa phương, hoặc các đoàn thể; Có
tâm lý ỷ lại vào vốn tài trợ, ưu đãi, nên thụ động từ
người vay đến bên cho vay. Do đó, trong thời gian
tới cần khuyến khích chuyển đổi và tái cơ cấu lại bộ
máy tổ chức theo hướng chuyên nghiệp, đảm bảo
an toàn hoạt động.
Thứ tư, c
ác tổ chức TCVM cần có cơ chế đặc
thù trong huy động vốn. Ví dụ như biên độ cho
phép về lãi suất, phí cao hơn các TCTD khác khi
cung ứng dịch vụ tài chính cho thị trường, nhưng
nằm trong trần kiểm soát của NHNN. Cùng với
đó, hoàn thiện chính sách, cơ chế, quy định cụ thể
cho phép các tổ chức TCVM tham gia huy động
vốn trên thị trường quốc tế để đa dạng hóa nguồn
vốn hoạt động.
Thứ năm,
phần lớn các hộ nghèo sinh sống ở khu
vực nông thôn, nên hoạt động nông nghiệp và sản
xuất nhỏ là chủ yếu, do đó khi tiến hành cho vay cần
lồng ghép các chương trình khuyến nông, khuyến
ngư vào hoạt động tài chính vi mô; kết hợp sự tư
vấn chặt chẽ của các hiệp hội, ngành nghề, chính
quyền địa phương để tạo ra sản phẩm có giá trị cao,
giúp tăng thu nhập cho hộ nghèo cũng như đảm bảo
hiệu quả cho các chương trình.
Thứ sáu,
các tổ chức TCVM cần nghiên cứu áp
dụng các sản phẩm dịch vụ thích hợp cho hộ nghèo
trong huy động vốn, cho vay và dịch vụ. Cụ thể, đa
dạng hóa hình thức tham gia tiết kiệm, cho vay, thu
nợ theo kỳ hạn, theo lãi suất, theo thời vụ. Mức cho
vay hộ nghèo không nên giới hạn trong phạm vi 50
triệu như hiện nay mà nên tùy vào nhu cầu và tính
khả thi của từng dự án. Ngoài ra tổ chức TCVM cần
phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
cũng như tham gia thu hộ, chi hộ các khoản về thuế,
tiền điện, nước, phí điện thoại, internet và mobile
bangking, đáp ứng như cầu khách hàng nông thôn
hay hộ nghèo.
Thứ bảy,
các tổ chức TCVM cần triển khai đào
tạo, tái đào tạo nhân sự có chuyên môn về tài chính,
ngân hàng, về quản lý tài chính và am hiểu cơ bản
kỹ thuật về khuyến nông, sản xuất tiểu thủ công và
các chương trình phát triển nông thôn để tư vấn cho
khách hàng sử dụng vốn vay hiệu quả.
Tóm lại, tài chính vi mô cần được phát triển đồng
bộ, chính thức và có sự định hướng chặt chẽ nhằm
góp phần giảm nghèo bền vững, phát huy năng lực
sản xuất xã hội và hoàn thiện hệ thống tài chính Việt
Nam trong lâu dài.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Văn Vũ An và Vương Quốc Duy (2015), Luận văn “Các yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định tham gia hụi của nông hộ tại huyện Duyên Hải, tỉnh
Trà Vinh”, Đại học Cần Thơ;
2. Nguyễn Kim Anh (2011), Tài chính vi mô với giảm nghèo tại Việt Nam –
kiểm định và so sánh, NXB Thống kê;
3. Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội (2015), Kết quả 15 năm thực hiện các
mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Việt Nam, Hà Nội;
4. UNDP và Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội (2015), Báo cáo tổng quan
các nghiên cứu về giảm nghèo ở Việt Nam, Hà Nội
;
5. Ledgerwood, J. (1999), Rural Finance Handbook, An Institutional and
Financial Perspective, The World Bank, Washington, D.C. 1999.
1...,48,49,50,51,52,53,54,55,56,57 59,60,61,62,63,64,65,66,67,68,...122
Powered by FlippingBook