K1 T3 - page 52

54
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
đoàn Xăng dầu Việt Nam (PLX); Công ty cổ phần Ô
tô Trường Hải (THA), Tổng Công ty Dược Việt Nam
(Vinapharm); Tổng Công ty máy động lực và máy
nông nghiệp Việt Nam (VEAM)... với kết quả kinh
doanh khá ấn tượng trong năm 2016 như: PLX đạt
mức lãi kỷ lục hơn 6.200 tỷ đồng, đạt 158% kế hoạch,
ROE đạt trên 50%, hay như THA trong 6 tháng đầu
năm 2016, đạt trên 3.709 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế,
trong đó lợi nhuận sau thuế của cổ đông công ty mẹ
3.682 tỷ đồng... cũng trở thành đích ngắm của các
nhà đầu tư. Tuy nhiên, tình trạng “khó lường” cổ
phiếu trên thị trường OTC cũng khiến các nhà đầu
tư đau đầu do các thông tin liên quan đến hoạt động
kinh doanh thường khá hạn chế. Thực tế thời gian
qua cũng cho thấy, trên thị trường OTC, đặc biệt tại
các thời điểm “sốt nóng” còn rất nhiều vụ việc nhà
đầu tư bị mất tiền do thông tin thiếu minh bạch hoặc
nhà đầu tư không tiếp cận được các nguồn tin để có
quyết định đầu tư chính xác.
Bên cạnh đó, hiện nay các nghiên cứu ở trên chỉ
tập trung đánh giá chất lượng công bố thông tin trên
thị trường niêm yết mà chưa đề cập nhiều đến thị
trường OTC. Ở Việt Nam, thị trường OTC đã được
các cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng
khoán quan tâm, tạo điều kiện phát triển. Tuy nhiên,
sau nhiều năm vận hành, thị trường OTC ở Việt
Nam vẫn còn nhiều khiếm khuyết, đặc biệt là thông
tin chưa minh bạch khiến cho thị trường này trở nên
không thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư. Các công
ty tham gia thị trường, khối lượng giao dịch và giá
trị giao dịch luôn ở mức thấp. Thực tế ở Việt Nam
có trên 90% các công ty là các công ty vừa và nhỏ,
tương ứng với trên 500.000 công ty công ty vừa và
nhỏ. Như vậy, nguồn cung tiềm năng trên thị trường
OTC là rất lớn nhưng con số 289 công ty (HNX, 2015)
đăng ký giao dịch trên thị trường OTC thực sự quá
khiêm tốn. Ngoài ra, thị trường OTC ở Việt Nam có
khối lượng giao dịch chỉ bằng 1,1% và giá trị giao
dịch chỉ bằng 0,7% so với thị trường chứng khoán
tập trung (HNX, 2015). Trong một nghiên cứu của
Nguyễn Thị Bích Thủy (2014) về việc đánh giá chất
lượng công bố thông tin của tổ chức phát hành trên
thị trường OTC Việt Nam, kết quả đánh giá tính kịp
thời 70%, tính chính xác 50%, tính đầy đủ 76%.
Tại Việt Nam, Nguyễn Đình Hùng (2010) cho
rằng, chất lượng của thông tin công bố bao gồm sự
kịp thời, sự thuận tiện, sự chính xác, đầy đủ và nhất
quán. Trong khi đó, Ngô Thị Thu Giang (2014) đã
đánh giá mức độ công bố thông tin của các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam theo
các tiêu chí: tính thông tin, tính rõ ràng dễ hiểu và
tính cập nhật. Tính thông tin được đo lường bằng
số lượng/mục thông tin xuất hiện hoặc không xuất
hiện trong báo cáo công bố. Tính rõ ràng dễ hiểu
được đo lường được đánh giá là khả năng người sử
dụng thông tin có thể hiểu được nội dung trình bày
thông tin công bố. Các thông tin công bố cần được
trình bày có lời văn diễn giải và có thể có số liệu
định lượng minh họa. Tính cập nhật được đo lường
bằng khoảng cách giữa thời gian công bố thông tin
với thời gian cần công bố thông tin. Thông tin được
đánh giá là cập nhật nếu ngày công bố thông tin xảy
ra trước hoặc đúng thời điểm cần phải công bố thông
tin theo quy định.
Như vậy, chất lượng công bố thông tin trên thị
trường OTC Việt Nam là khoảng trống cho các
nghiên cứu tiếp theo. Dựa trên các nghiên cứu trên
thế giới và thực tế Việt Nam, tác giả cho rằng, đánh
giá chất lượng công bố thông tin của tổ chức phát
hành cần dựa trên các tiêu chí tính đầy đủ; tính phù
hợp - dễ hiểu, tính tin cậy và tính kịp thời. Đặc biệt,
việc đánh giá về tiêu chí tính phù hợp - dễ hiểu sẽ
sử dụng khảo sát các nhà đầu tư và chuyên gia phân
tích tài chính về các mục thông tin công bố có đáp
ứng nhu cầu của người sử dụng hay không. Nói
cách khác, cần làm rõ ý nghĩa giá trị thông tin cung
cấp chứ không chỉ mang tính hình thức như tiêu chí
tính đầy đủ mà các nghiên cứu trước đây phân tích,
đánh giá.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Thúy Anh (2012), “Minh bạch hóa thông tin trên thị trường chứng
khoán Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế”, luận án tiến sỹ,
Đại học Ngoại Thương;
2. Ngô Thu Giang (2014), “Tác động của các yếu tố thuộc đặc điểm công ty niêm
yết tới mức độ công bố thông tin và hệ quả của nó”, luận án tiến sỹ, Đại học
Kinh tế Quốc dân Hà Nội;
3. Nguyễn Đình Hùng (2010), “Hệ thống kiểm soát sự minh bạch thông tin tài
chính công bố của các công ty niêm yết tại Việt Nam”, luận án tiến sỹ, Đại học
Kinh tế TP. Hồ Chí Minh;
4. Nguyễn Thị Bích Thủy (2014), “Phát triển thị trường OTC ở Việt Nam giai đoạn
2015-2020”. Đề tài cấp trường, Đại học Vinh;
5. Céline Michaïlesco (2010), “The determinants of the quality of accounting
information disclosed by French listed companies”, 1999 EAA Congress,
Bordeaux, France;
6. Men Rong andWang Hui (2008), “Analysis on Quality of Strategy Information
Disclosure in Listed Steel Companies - Based on Annual Reporf”, Orient
Academic Forum;
7. Laivi Laidroo (2008), “Measuring Public Announcements’ Disclosure Quality
on Tallinn, Riga and Vilnius Stock Exchanges”, Tallinn University of Technology.
8. Beattie, V. and Me Innes, w.and Feamley, s. (2004). “A methodology for ana-
lyzing and evaluating narratives in annual reports: a comprehensive descrip-
tive profile and metrics for disclosure quality attributes” , Accounting Forum
28 (3) 205-236.
1...,42,43,44,45,46,47,48,49,50,51 53,54,55,56,57,58,59,60,61,62,...94
Powered by FlippingBook