k1 t5 - page 92

94
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
Việt Nam và nắm giữ khối lượng trái phiếu chính
phủ phát hành, góp phần tạo tính thanh khoản cho
thị trường. Tuy cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
2008 – 2009 đã tác động tiêu cực đến nhà đầu tư nước
ngoài nhưng khối này vẫn đảm bảo mua ròng chứng
khoán và gia tăng tỷ lệ mua bán trên thị trường.
Giao dịch ngoại hối
Pháp lệnh Ngoại hối 2005 là văn bản pháp lý
cao nhất trong các hoạt động quản lý ngoại hối của
Việt Nam. Trong đó quy định các giao dịch vốn ra
và vào Việt Nam đều được thực hiện thông qua tài
khoản ngoại tệ của một TCTD. Bên cạnh đó, các tổ
chức kinh tế, TCTD được phép vay và trả nợ bằng
ngoại tệ nhưng phải thực hiện đăng ký khoản vay,
mở và sử dụng tài khoản, rút vốn và chuyển tiền
trả nợ, báo cáo tình hình thực hiện khoản vay theo
quy định của NHNN. Hoạt động giao dịch ngoại
hối ngày càng phát triển, tuy nhiên vẫn còn chịu sự
quản lý của NHNN.
Như vậy, quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam
đã đạt được một số thành công, tuy nhiên, quá trình
này mới chỉ tự do hóa một phần. Trong bối cảnh hội
nhập quốc tế hiện nay thì việc tự do hóa tài chính là
cấp thiết, song cũng không nên nóng vội. Chúng ta
cần căn cứ vào thực tế nội lực nền kinh tế, chính trị,
xã hội để có những giải pháp, phát huy tính tích cực,
hạn chế rủi ro và đảm bảo sự lành mạnh, ổn định và
phát triển hệ thống tài chính quốc gia.
Tài liệu tham khảo:
1. Tự do hóa tài chính ở Việt Nam, Con đường và bước đi; Viện Nghiên cứu quản
lý Kinh tế trung ương;
2. TS. Bùi Thị Thanh Tình, TS. Lê Ngọc Lân; (2015); Đặc điểmchủ yếu của tiến trình
tự do hóa tài chính trên thế giới; Học viện Ngân hàng;
3. Website: hsx.vn; hsx.vn; vnep.org.vn...
CTCK nên Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã thực
hiện tái cấu trúc các CTCK. Sau 5 năm thực hiện tái
cấu trúc, số lượng CTCK đã giảm mạnh. Đặc biệt,
chất lượng tài chính, hoạt động cũng như mức độ
an toàn hoạt động nhóm này đã tăng lên đáng kể.
Quy mô TTCK đã dần được cải thiện, số lượng tài
khoản của nhà đầu tư trong và ngoài nước đã tăng
lên. Với những thay đổi về mặt pháp lý trong giai
đoạn tới, CTCK có cơ hội tăng trưởng mạnh hơn,
nhưng đồng thời, áp lực cạnh tranh và sàng lọc các
CTCK cũng lớn hơn.
Tự do hóa giao dịch vốn
Vốn đầu tư trực tiếp
Khi Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật về
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để tạo môi trường
pháp lý, hoàn thiện môi trường đầu tư thì quá trình
tự do hóa dòng FDI đã hình thành và phát triển.
Đây được xem là nguồn lực quan trọng cùng với
nguồn vốn trong nước để tăng trưởng kinh tế. Dòng
vốn FDI đã tăng nhanh chóng và đạt mức cao vào
năm 1996, suy giảm trong giai đoạn khủng hoảng
tài chính châu Á và lấy lại đà tăng trưởng, đạt mức
kỷ lục năm 2007 -2008 cùng với thời điểm Việt Nam
chính thức gia nhập WTO. Bị ảnh hưởng bởi khủng
hoảng kinh tế toàn cầu giai đoạn 2009 – 2012, FDI
có sự giảm sút nhưng từ năm 2013 đến nay, FDI đã
dần tăng trưởng ổn định. Những thay đổi lớn về
cơ sở pháp lý như việc: Luật Doanh nghiệp, Luật
Đầu tư, Pháp lệnh Ngoại hối được ban hành đã
khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào
thị trường trong nước cũng như các dòng vốn FDI
ra nước ngoài đã được khơi thông và ngày càng
phát triển.
Vốn đầu tư gián tiếp
Đối với Việt Nam, đầu tư gián tiếp chủ yếu thông
qua TTCK. TTCK là nơi thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài, đóng góp đáng kể và tỷ lệ sở hữu các công ty
HÌnh 2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các TCTD (%)
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Bảng 1: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (triệu USD)
Năm
Tổng số vốn đăng ký
Tổng số vốn thực hiện
2006
12.044,0
4.100
2007
21.347,8
8.030
2008
71.726,0
11.500
2009
23.107,3
10.000
2010
19.886,1
11.000
2011
15.598,1
11.000
2012
13.013,0
10.460
2013
22.352,0
11.500
2014
21.920,0
12.500
2015
22.757,0
14.500
2016
24.400,0
15.800
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài
1...,82,83,84,85,86,87,88,89,90,91 93,94,95,96,97,98,99,100,101,102,...110
Powered by FlippingBook