TCTC (2018) so 7 ky 1 (IN)-full - page 68

TÀI CHÍNH -
Tháng 7/2018
67
kiểm toán (audit) và có vay thấu chi tại ngân hàng
(overdraft). Tất cả các biến trên là biến giả nhận giá
trị có (1) hoặc không (0).
Giả thiết 2:
Các biến số uy tín tín dụng có quan
hệ tương quan thuận với xác suất có vốn vay
ngân hàng.
Về nhóm biến thể chế môi trường kinh doanh,
nghiên cứu sử dụng chỉ số tổng hợp PCI và 9 chỉ số
thành phần của PCI, bao gồm: Chi phí gia nhập thị
trường, tiếp cận đất đai, chi phí thời gian, chi phí
phi chính thức, dịch vụ hỗ trợ DN, tính năng động
của lãnh đạo tỉnh, đào tạo lao động và hệ thống
pháp luật, tư pháp. Các biến số trên đại diện cho
chất lượng của thể chế môi trường kinh doanh. Theo
Williamson (1985), chất lượng thể chế môi trường
kinh doanh sẽ ảnh hưởng tới chi phí giao dịch, độ
bất trắc và tần suất giao dịch trên thị trường. Ở thị
trường mà các thể chế tỏ ra là hiệu quả, thì chi phí
giao dịch và độ bất trắc sẽ giảm, điều này thúc đẩy
DN mở rộng kinh doanh và vay vốn nhiều hơn. Mặt
khác, nó cũng gia tăng niềm tin cho ngân hàng và
kích thích các khoản cho vay hào phóng hơn.
Giả thiết 3:
Các biến thể chế có quan hệ tương
quan thuận với xác suất có vốn vay ngân hàng.
Trong bài viết, nhóm tác giả bổ sung thêm các
biến giả để kiểm soát các hiệu ứng cố định theo
ngành, địa phương và thời gian. Bộ số liệu có tới 27
nhóm ngành nhưng chúng được nhóm lại thành 5
nhóm ngành chính dựa trên phân ngành quốc gia
VSIC2007 để loại trừ vấn đề đa cộng tuyến.
Về quy trình thực tế, hai bộ dữ liệu về DN và thể
chế được hợp nhất để tạo bộ dữ liệu mảng. Sau đó,
nghiên cứu thực hiện làm sạch bộ dữ liệu bằng cách
loại bỏ các quan sát cực đoan, phi lý và một số kiểm
định để bảo đảm sự ổn định của mô hình. Với hồi
quy xác suất hai mức độ dạng logit trên dữ liệu mảng,
bài viết xem xét cả hiệu ứng cố định (F.E), hiệu ứng
ngẫu nhiên (R.E). Mô hình được lựa chọn cuối cùng
đáp ứng tất cả các kiểm định. Kết quả từ kiểm định
Hausmann cho thấy, mô hình hiệu ứng cố định là
không phù hợp so với mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên,
tuy nhiên, khác biệt giữa hai mô hình là không lớn.
Kết quả ước lượng và thảo luận
Các phát hiện chính mà bài viết có thể rút ra từ
kết quả các mô hình nghiên cứu như sau:
Thứ nhất,
sau khi kiểm soát tất cả các yếu tố
khác thì các đặc điểm riêng của DN (như quy mô
lao động, tuổi, giá trị đầu tư năm liền trước và tỷ
lệ nợ) có tác động phù hợp với dự đoán. Hệ số
dương và có ý nghĩa ở mức 1% của biến số log của
lao động thể hiện rằng quy mô DN càng lớn thì
xác suất có vốn vay chính thức càng cao. Hệ số âm
và có ý nghĩa ở mức 10% của biến tỷ lệ nợ (debt_r)
cho thấy, DN có tỷ lệ nợ cao thì sẽ giảm khả năng
có vốn vay chính thức. DN có khoản đầu tư ở năm
trước sẽ có xu hướng có vốn vay chính thức. Điều
này được khẳng định khá chắc chắn bằng hệ số
dương và ý nghĩa ở mức 1% của biến log giá trị
đầu tư (lnI) trong tất cả các mô hình sử dụng để
ước lượng. Kết quả tương đồng với Lê (2012) phản
ánh rằng, nếu DN có các dự án đầu tư sẽ thúc đẩy
nhu cầu vay vốn chính thức.
Về tuổi DN, không có bằng chứng cho thấy DN
nhiều tuổi hơn thì sẽ có xác suất vay vốn chính thức
cao hơn. Phát hiện này đồng nhất với kết quả của Lê
và Nguyễn (2009). Điều này không nhất thiết hàm
ý rằng kinh nghiệm không giúp ích gì cho DNNVV
trong việc vay vốn. Lý do khiến tuổi của DN không
giải thích cho việc vay vốn, bởi vì các DNNVV có
tỷ lệ rút khỏi kinh doanh cao và chuyển đồi chủ
sở hữu nhiều lần. Điều này khiến cho ngân hàng
không đánh giá cao tuổi kinh nghiệm và không lấy
đây làm tiêu chí cho vay vốn.
Thứ hai,
về các biến uy tín tín dụng, bao gồm:
Xuất khẩu (export), đăng ký kinh doanh (formal),
thành viên hiệp hội (group) và chủ DN là Đảng viên
(party), kết quả mô hình không đưa ra bất kỳ một
tác động nào có ý nghĩa thống kê. Như vậy, việc DN
có đăng ký kinh doanh, có tham gia xuất khẩu và
tham gia các hiệp hội, chủ DN có là Đảng viên cũng
không gia tăng khả năng tiếp cận vốn vay chính
thức. Những kết quả trên phản ánh rằng, đối với
DNVVV thì các thông tin về năng lực, uy tín, quan
hệ, đăng ký kinh doanh dường như không phải là
chỉ dấu hữu ích để ngân hàng tin tưởng cho vay.
Thứ ba,
một phát hiện mới của nghiên cứu là tất
cả các kênh tín dụng thay thế cho tín dụng ngân
hàng đều giảm xác suất có khoản vay ngân hàng của
DNNVV. Điều này cho thấy, DNNVV gặp khó khăn
khi tiếp cận vốn chính thức nên phải dựa nhiều vào
các nguồn vốn tự có và vốn không chính thức, các
mạng lưới quan hệ xã hội để huy động nguồn vốn
đầu tư cho các dự án. Tuy nhiên, các kênh tín dụng
không chính thức này là không bền vững, nhiều rủi
ro và chi phí cao.
Thứ tư,
thể chế môi trường kinh doanh có vai trò
Khi môi trường kinh doanh được cải thiện, các
thể chế tốt được thực thi thì chi phí giao dịch
trên thị trường sẽ rẻ hơn. Doanh nghiệp có thể
an tâmmở rộng kinh doanh, tích cực đầu tư và
điều này gia tăng xác suất vay ngân hàng.
1...,58,59,60,61,62,63,64,65,66,67 69,70,71,72,73,74,75,76,77,78,...129
Powered by FlippingBook