TCTC so 5 ky 1 - page 32

34
CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
như các Quỹ khác trong DN. Với mô hình song
hành này, DN sẽ có quyền để lựa chọn một mô
hình phù hợp nhất cho mình để mang lại hiệu quả
cao, không lãng phí nguồn vốn.
- Cần bổ sung quy định cụ thể tỷ lệ trích quỹ
từ thu nhập tính thuế thu nhập DN theo quy mô
DN, cơ chế tạo lập, sử dụng trong trường hợp đối
với DN ngoài nhà nước vì theo khái niệm DN nhà
nước hiện tại được quy định chỉ gồm DN nhà nước
đầu tư 100% vốn điều lệ. Bên cạnh đó, cần bổ sung
thêm Hợp tác xã, làng nghề vào đối tượng khuyến
khích thành lập Quỹ phát triển KHCN.
Ba là
, đối với việc sử dụng Quỹ phát triển KHCN
trong DN: mở rộng phạm vi sử dụng Quỹ phát
triển KHCN và đơn giản hóa các quy định về hoạt
động của Quỹ phát triển KHCN. Việc nghiên cứu
phát triển không chỉ dừng lại ở những hoạt động
trong nước mà còn có xu hướng đầu tư, hợp tác với
nước ngoài. Do vậy, những trường hợp hợp tác với
bên ngoài sẽ bị hạn chế vì không nằm trong phạm
vi chi dùng của Quỹ phát triển KHCN của DN,
trong khi hỗ trợ của Nhà nước và khả năng của
DN đều không thể đáp ứng. Việc tạo cơ chế thông
thoáng hơn sẽ giúp DN tìm được nhiều hướng đi
để phát triển KHCN cho DN cũng như phát triển
các ứng dụng trong nhiều DN khác.
Bốn là
, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn về
cơ chế tạo lập, sử dụng, quản lý, cơ chế xử lý vi
phạm và ưu đãi về thuế, chế độ kế toán đối với
Quỹ phát triển KHCN của DN theo hướng phù
hợp, đồng nhất. Bộ KHCN cần xây dựng văn bản
hướng dẫn Nghị định 95/2014/NĐ-CP về mặt kỹ
thuật để các DN có thể tạo lập và sử dụng Quỹ
phát triển KHCN nhanh chóng và hiệu quả.
Năm là,
cần xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá
hiệu quả sử dụng Quỹ trong DN để có những ưu
đãi, hỗ trợ phù hợp, kịp thời và đúng đối tượng,
tiết kiệm nguồn lực và mang lại hiệu quả cao cho
DN cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo tổng kết năm2014 của Sở KHCN TP. Hồ Chí Minh, ngày 22/1/2015;
2. TS. Nguyễn Vân Anh, “Bàn về một số vấn đề liên quan đến trích lập và sử
dụng nguồn vốn Quỹ phát triển KHCN của DN”, Tạp chí KHCN số 18/2013;
3. Thông tin chuyên đề, “Quản lý tài chính trong hoạt động KHCN- Thực
trạng và giải pháp”, Trung tâm NCKH - UBTVQH, 2013;
4. Báo cáo kết quả hoạt động KHCN các tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ
giai đoạn 2011-2015, ngày 02/3/2015;
5. OECD (2006 – 2011), Science, Technology and Industry;
6. OECD (2011), Government funding of R&D;
7. Deloitte (2012), Global Survey of R&D Tax Incentive;
8. Republic of Korea Tax Guide 2011.
từng loại hình DN, quy mô DN theo hướng
khuyến khích DNVVN tiếp cận nhiều hơn với
KHCN. Mức ưu đãi có thể quy định cho DNVVN
là từ 15 – 20% thu nhập tính thuế TNDN, DN lớn
có thể tối đa 10% thu nhập tính thuế TNDN trong
suốt giai đoạn thực hiện nghiên cứu, phát triển sản
phẩm (Chú trọng hỗ trợ các DN truyền dẫn công
nghệ (đây là loại hình DN có nhiều ưu điểm trong
ngành công nghiệp hỗ trợ: vừa thực hiện đổi mới
công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm của DN,
vừa là DN chuyển giao công nghệ cho các DN khác
trong chuỗi sản xuất và cung ứng sản phẩm, nâng
tỷ lệ nội địa hóa).
(ii) Thông qua hỗ trợ trực tiếp chi phí nghiên
cứu, phát triển. Mức hỗ trợ có thể áp dụng cho
phần chi phí vượt mức kế hoạch (tổng chi phí được
tính dựa trên so sánh với các sản phẩm tương tự
trên thị trường trong nước hoặc nước ngoài) hoặc
hỗ trợ theo một tỷ lệ nhất định được Nhà nước
quy định. Khoản hỗ trợ này được cấp cho DN sau
khi có kết quả nghiệm thu đạt yêu cầu. Có thể
tham khảo kinh nghiệm một số nước hỗ trợ chi
phí cho nghiên cứu, phát triển như Brazil: 13%;
Pháp: 30% cho 100 triệu Euro chi phí đầu tiên,
50% cho năm thứ 2, 40% cho năm thứ 3, 5% cho
phần chi phí trên 100 triệu Euro; New Zealand: hỗ
trợ 30% với điều kiện doanh thu 3 năm trước trên
3 triệu USD cho công ty lớn, công ty nhỏ được
nhận 100 – 200 nghìn USD qua chứng từ chuyển
giao công nghệ…
Hai là
, đối với trường hợp khuyến khích DN tạo
lập Quỹ Phát triển KHCN, cần hoàn thiện khung
pháp lý tài chính để tạo sự đồng bộ, thống nhất
và khuyến khích được DN tạo lập Quỹ Phát triển
KHCN. Cụ thể:
- Song hành với mô hình Quỹ Phát triển KHCN
trong DN trong các văn bản quy phạm quy định,
nên có thêm dạng Quỹ Phát triển KHCN ở dạng
“tài khoản”, nghĩa là không có bộ máy quản lý mà
chỉ là một lượng tiền để chi dùng cho mục đích
KHCN, tương tự như trích lập Quỹ Đầu tư phát
triển DN hay Quỹ Khen thưởng của DN. Phần này
sẽ được trích lập hàng năm và hạch toán tương tự
Nếu DN không sử dụng Quỹ phát triển KHCN
hoặc sử dụng không hết 70% trong thời hạn
5 năm kể từ năm kế tiếp năm trích lập, hoặc
sử dụng không đúng mục đích thì phải nộp
cho ngân sách nhà nước phần thuế thu nhập
đã trích lập Quỹ phát triển KHCN và phần lãi
phát sinh từ số thuế TNDN đó.
1...,22,23,24,25,26,27,28,29,30,31 33,34,35,36,37,38,39,40,41,42,...86
Powered by FlippingBook