Tạp chí Tài chính kỳ 2 số tháng 2-2016 - page 24

26
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
phòng cụ thể và dự phòng chung…
Thứ ba,
để phục vụ cho việc ra đời và hoạt động
của TTCK phái sinh, Việt Nam cần xem xét sửa đổi
Luật Kế toán và cho phép sử dụng cơ sở đo lường
theo giá trị hợp lý; ban hành chuẩn mực kế toán
công cụ tài chính, chuẩn mực về giá trị hợp lý cũng
như các thông tư hướng dẫn kế toán các công cụ tài
chính phái sinh.
Đặc biệt, đối với các CTCK thỏa mãn các điều kiện
về vốn cũng như một số các điều kiện khác khi tham
gia vào thị trường chứng khoán phái sinh CTCK có thể
tham gia vào hoạt động môi giới chứng khoán phái
sinh; tự doanh chứng khoán phái sinh (với mục đích
kinh doanh hoặc phòng ngừa rủi ro). Vì vậy, kế toán
CTCK cũng phải đưa ra những hướng dẫn để CTCK
ghi nhận những khoản chi phí, doanh thu liên quan
đến việc môi giới chứng khoán phái sinh, cũng như ghi
nhận giá trị chứng khoán phái sinh tự doanh cũng như
lãi lỗ từ hoạt động tự doanh chứng khoán phái sinh.
Để phản ánh giá trị các công cụ tài chính phái
sinh trên các BCTC, một số chỉ tiêu cần được bổ
sung như sau:
- Trên bảng cân đối kế toán bổ sung các chỉ tiêu
“Tài sản phái sinh ngắn hạn”; “Tài sản phái sinh
dài hạn”; “Nợ phải trả phái sinh ngắn hạn”; “Nợ
phải trả phái sinh dài hạn”; “Chênh lệch đánh giá
lại công cụ tài chính”.
- Trên thuyết minh BCTC bổ sung các mục mô tả
chi tiết về các điều khoản và đặc điểm của từng công
cụ tài chính phái sinh sử dụng cho mục đích kinh
doanh và cho mục đích phòng ngừa rủi ro…
Thứ tư,
để tạo được sự nhất quán giữa các CTCK,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tích và so sánh
thông tin cũng như phản ánh đúng bản chất và tầm
quan trọng của các khoản mục, Việt Nam cần có quy
định rõ ràng, cụ thể xem khoản phải thu phát sinh từ
giao dịch ký quỹ, hợp đồng hợp tác kinh doanh và
ứng trước tiền bán chứng khoán được trình bày trên
bảng cân đối kế toán ở chỉ tiêu nào (ở chỉ tiêu “Phải
thu khách hàng” hay “phải thu hoạt động giao dịch
chứng khoán” hay “đầu tư tài chính ngắn hạn khác”);
Hay tương tự đối với khoản tiền gửi ký quỹ của nhà
đầu tư (ở chỉ tiêu “các khoản phải trả phải nộp khác”
hay “phải trả hoạt động giao dịch chứng khoán”).
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tài chính, Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam;
2. Bộ Tài chính, Thông tư số 95/2008/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán CTCK;
3. Bộ Tài chính, Thông tư 162/2010/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của
Thông tư 95/2008/TT-BTC;
4.
;
5.
.
đối tượng nhằm cung cấp thông tin cho người sử
dụng BCTC.
Thứ năm,
một số sai sót khác: Các CTCK vẫn còn
tồn tại một số sai sót khác trong việc ghi nhận lãi
dồn tích trước khi mua của các khoản đầu tư tài
chính; nhận cổ tức bằng cổ phiếu; việc hạch toán các
giao dịch ngoại tệ và trình bày thông tin về ngoại tệ
trên BCTC chưa thực sự đầy đủ…
Giải pháp hoàn thiện việc lập và trình bày
báo cáo tài chính tại các công ty chứng khoán
Thứ nhất,
hiện nay trên bảng cân đối kế toán của
CTCK chỉ tiêu “Tiền và tương đương tiền” phản ánh
cả tiền gửi giao dịch chứng khoán của NĐT lẫn của
CTCK, báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh cả dòng
tiền tham gia giao dịch chứng khoán của NĐT. Vì
vậy, ở góc độ quản lý, bảng cân đối kế toán không
thể hiện rõ quy mô và năng lực của CTCK. Để khắc
phục tình trạng này, chế độ kế toán CTCK cần sửa
đổi theo hướng tách biệt hẳn tài sản của khách hàng
và tài sản của công ty, tài sản của khách hàng CTCK
nên coi như các khoản giữ hộ hoặc ký gửi và được
phản ánh ngoài bảng cân đối kế toán.
Thứ hai,
để theo dõi và quản lý tốt các khoản
cho vay ký quỹ margin, cho vay ứng trước tiền bán
chứng khoán… Bộ Tài chính nên đưa ra quy định
phân loại các khoản cho vay của CTCK theo chất
lượng các khoản cho vay và hướng dẫn trích lập dự
phòng rủi ro cho vay tương tự như quy định đối với
các tổ chức tín dụng.
- Về việc phân loại các khoản cho vay:
Hiện cách
phân loại của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam về
cơ bản phù hợp với thông lệ về phân loại nợ trong
ngành Tài chính ngân hàng trên thế giới và trong
khu vực. Cụ thể, theo đó, các khoản cho vay của các
CTCK cũng được phân thành 5 nhóm lớn: Nhóm
1 - Nợ đủ tiêu chuẩn: là các khoản nợ được CTCK
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi
đúng hạn; Nhóm 2 - Nợ cần chú ý là các khoản nợ
có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ;
Nhóm 3 - Nợ dưới tiêu chuẩn là các khoản nợ có khả
năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi; Nhóm 4 - Nợ
nghi ngờ: là các khoản nợ có khả năng tổn thất cao;
Nhóm 5 - Nợ có khả năng mất vốn là các khoản nợ
được đánh giá là không còn khả năng thu hồi.
- Việc xác định và hạch toán dự phòng rủi ro cho vay:
Dự phòng rủi ro cho vay thực chất là sự điều chỉnh
giảm vào giá trị ghi sổ của các khoản cho vay để
phản ánh giá trị có thể thu hồi được của khoản mục
tài sản này. Theo nguyên tắc thận trọng của kế toán,
khi có chứng cứ về sự giảm giá trị, CTCK tiến hành
đánh giá mức giảm giá trị để tiến hành trích lập dự
1...,14,15,16,17,18,19,20,21,22,23 25,26,27,28,29,30,31,32,33,34,...97
Powered by FlippingBook