TÀI CHÍNH -
Tháng 5/2016
19
Thực trạng quản lý, sử dụng và kinh doanh tài sản
kết cấu hạ tầng đường sắt
Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông nói chung và
kết cấu hạ tầng đường sắt nói riêng là nền tảng vật
chất có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Việt Nam có kết cấu hạ tầng đường sắt được xây
dựng và đưa vào khai thác đến nay đã hơn 100 năm,
với khoảng hơn 3.000 km đường, 287 ga, 1.818 cầu
lớn nhỏ, 39 hầm, 5.735 điểm giao cắt giữa đường bộ
với đường sắt và các công trình phụ trợ lớn; quỹ đất
thuộc tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt trên 6.000 ha.
Đây là khối tài sản Nhà nước đặc biệt lớn, có đóng
góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước trong thời gian qua. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy, kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt và
công tác quản lý kết cấu hạ tầng đường sắt của nước
ta còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ, tính kết nối thấp,
hiện đang là “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển kinh
tế - xã hội. Các “điểm nghẽn” này thể hiện ở các mặt
dưới như:
Một là,
trong những năm qua, hệ thống kết cấu hạ
tầng đường sắt không những không được đầu tư phát
triển mở rộng, mà còn bị thu hẹp do bị tháo gỡ một
số tuyến. Mặc dù là phương thức vận tải có rất nhiều
lợi thế do có giá thành vận tải thấp, vận chuyển được
hàng hóa có khối lượng lớn, an toàn... nhưng năng lực
vận tải hiện nay đạt rất thấp (chỉ đạt khoảng 4,5% tổng
lượng vận tải hành khách và khoảng 1,8% tổng lượng
vận tải hàng hóa).
Hai là,
Luật Đường sắt năm 2005 và các văn bản
hướng dẫn đã tạo khung pháp lý cơ bản cho công tác
quản lý mang tính chất quản lý chuyên ngành; nội
dung liên quan đến quản lý, sử dụng và kinh doanh
tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt còn bất cập, chưa
theo kịp với tình hình chuyển đổi cơ chế thị trường.
Quy định của pháp luật hiện hành về phân công,
phân cấp trách nhiệm, quyền hạn giữa chủ thể quản
lý với chủ thể sử dụng, kinh doanh hạ tầng đường sắt
chưa rõ ràng. Đây là một trong những rào cản hạn chế
tính chủ động sáng tạo của các chủ thể trong việc đổi
mới cơ chế quản lý, khai thác hạ tầng đường sắt, bảo
đảm nguyên tắc hiệu quả theo cơ chế thị trường.
Vai trò quản lý nhà nước với tư cách là chủ sở hữu
tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt (Bộ Giao thông và
Vận tải, Cục Đường sắt Việt Nam) còn mờ nhạt ở cả
phương diện pháp luật cũng như trong tổ chức thực
hiện. Khung pháp luật để quản lý nhà nước đưa ra các
quyết định định đoạt việc quản lý, khai thác hạ tầng
đường sắt chưa rõ ràng, nhiều nội dung đã phát sinh
từ thực tiễn nhưng còn thiếu quy định của pháp luật
để điều chỉnh...
Phương thức quản lý hiện hành là giao toàn bộ
hạ tầng đường sắt để Tổng công ty đường sắt Việt
Nam thực hiện tất cả các hoạt động sản xuất kinh
doanh một cách khép kín (từ quản lý, bảo trì, khai
thác, kinh doanh vận tải) đã và đang bộc lộ những
hạn chế như: Thiếu động lực để chủ động thực hiện
đổi mới do không phải cạnh tranh; cộng với trong
nội bộ Tổng công ty Đường sắt Việt Nam việc khai
thác tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt giao cho nhiều
đầu mối, quản lý không tập trung, mang nặng tính
hành chính, bao cấp (chưa gắn với thị trường); Năng
QUẢN LÝ, SỬDỤNGVÀ KINHDOANHTÀI SẢNKẾT CẤU
HẠ TẦNGĐƯỜNG SẮT: THỰC TRẠNGVÀ GIẢI PHÁP
ThS. NGUYỄN THỊ THOA
Kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt và công tác quản lý kết cấu hạ tầng đường sắt của
nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ, tính kết nối thấp, việc khai thác hiệu
quả kinh doanh từ hạ tầng đường sắt chưa phát huy hiệu quả hiện đang là “điểm nghẽn”
cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội. Từ thực trạng này, bài viết đưa ra các giải pháp nhằm
đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng và kinh doanh tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt.