24
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Thứ nhất,
các địa phương có nông, lâm trường;
các bộ, ngành thuộc Trung ương được giao quản lý
nông, lâm trường: Cần tiếp tục rà soát, đánh giá lại
thực trạng tình hình quản lý, sử dụng đất của các
nông, lâm trường; có kế hoạch, thời gian cụ thể hoàn
thiện nhiệm vụ rà soát đất đai, quy hoạch sử dụng
đất, đo đạc, cắm mốc ranh giới, lập hồ sơ địa chính
theo đúng chương trình của Chính phủ và thực tế
phê duyệt phương án tổng thể về sắp xếp, đổi mới
các công ty nông, lâm nghiệp.
Thứ hai,
căn cứ phương án tổng thể về sắp
xếp, đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; căn cứ
vào số diện tích đất sản xuất, kinh doanh thực tế;
UBND cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan
tài nguyên và môi trường làm thủ tục giao đất,
cho thuê đất, ký hợp đồng cho thuê đất cho các
công ty nông, lâm nghiệp được giao, cho thuê
đất; chuyển hồ sơ cho cơ quan thuế để lập sổ bộ,
xác định và thông báo số tiền thuê đất phải nộp
cho các nông, lâm trường thực hiện. Việc thu,
nộp tiền thuê đất được thực hiện theo quy định
pháp luật về quản lý thuế.
Thứ ba,
các bộ, ngành chức năng cần hướng dẫn
các cơ quan liên quan thực hiện nhiệm vụ rà soát đất
đai, quy hoạch sử dụng đất, đo đạc, cắm mốc ranh
giới, lập hồ sơ địa chính, lập hồ sơ thuê đất của các
nông, lâm trường; tháo gỡ kịp thời vướng mắc trong
quá trình thực hiện; sớm hoàn thành thủ tục giao đất,
thuê đất để cơ quan thuế có cơ sở xác định và thu nộp
nghĩa vụ tài chính về đất nông, lâm trường.
Thứ tư,
đối với các trường hợp phải chuyển sang
thuê đất đã được cơ quan tài nguyên và môi trường
đôn đốc, yêu cầu làm thủ tục mà thủ trưởng các
nông, lâm trường không triển khai thực hiện thì các
địa phương; các bộ, ngành được giao quản lý nông,
lâm trường đề xuất biện pháp xử lý trách nhiệm của
người đứng đầu các nông, lâm trường, các công ty
TNHH một thành viên nông, lâm nghiệp cố ý chây
ỳ không làm thủ tục chuyển sang thuê đất theo quy
định của pháp luật đất đai…
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 112/2015/QH13 về tăng cường quản lý đất đai có nguồn gốc
nông trường, lâm trường quốc doanh do các công ty nông nghiệp, công ty
lâm nghiệp, ban quản lý rừng và các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khai thác
sử dụng;
2. Báo cáo 314/BC-CP (ngày 25/6/2015) của Chính phủ thực hiện theo kế hoạch
giám sát của Quốc hội;
3. Báo cáo 614/BC-CP (ngày 9/11/2015) của Chính phủ về tình hình thực hiện
chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng đất tại các nông, lâm trường quốc
doanh giai đoạn 2004-2014.
quyền sử dụng đất. Vì vậy, nhiều địa phương
chưa kịp thời cập nhật và nắm rõ quy định nên
không báo cáo được số liệu về diện tích các công
ty nông, lâm nghiệp phải nộp tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất và số tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
các đơn vị này phải nộp theo quy định. Trên thực
tế, diện tích các công ty nông, lâm nghiệp kê khai
tính tiền thuê đất, sử dụng đất theo báo cáo của
các địa phương chủ yếu là diện tích đất phi nông
nghiệp sử dụng xây dựng trụ sở các công ty nông,
lâm nghiệp hoặc mục đích kinh doanh khác. Diện
tích này chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng diện
tích các công ty nông, lâm nghiệp phải chuyển
sang thuê đất hoặc giao đất có thu tiền sử dụng
đất theo quy định.
Thứ ba,
công tác thanh tra, kiểm tra việc thi hành
pháp luật về quản lý đất đai của các nông, lâm trường
chưa được quan tâm chỉ đạo thường xuyên; việc phổ
biến, tuyên truyền chính sách pháp luật đất đai, pháp
luật liên quan đến các công ty nông, lâm nghiệp chưa
được quan tâm đúng mức, còn mang tính hình thức.
Báo cáo 314/BC-CP (ngày 25/6/2015) do Chính
phủ thực hiện theo kế hoạch giám sát của Quốc hội
đã cho thấy rõ về tình trạng thực hiện chính sách,
pháp luật về quản lý, sử dụng đất tại các nông, lâm
trường quốc doanh.
Tính đến ngày 31/6/2012, các nông trường,
lâm trường, ban quản lý rừng và khu bảo tồn,
vườn quốc gia quản lý và sử dụng diện tích là
7.996.467ha; trên phạm vi cả nước có 642 nông,
lâm trường đã được Nhà nước giao đất, cho thuê
đất với tổng diện tích 7.599.580 ha chiếm 95%
tổng diện tích đang quản lý, sử dụng. Về thu nộp
nghĩa vụ tài chính của các nông lâm trường, tính
toán chưa đầy đủ của 48 Cục Thuế địa phương,
tổng số tiền thu nộp nghĩa vụ tài chính về đất đai
của các nông, lâm trường trong giai đoạn 2004-
2014 là khoảng 1.927,9 tỷ đồng. Trong đó, tổng
số tiền sử dụng đất phải nộp là 47,46 tỷ đồng
(số tiền đã nộp khoảng 27,31 tỷ đồng, số tiền sử
dụng đất còn nợ khoảng 20,21 tỷ đồng, chiếm
24,58% tổng số tiền sử dụng đất phải nộp) và
tổng số tiền thuê đất mà các nông, lâm trường
phải nộp khoảng 1.880,5 tỷ đồng (tiền thuê đất
đã nộp khoảng 1.694,7 tỷ đồng và số tiền thuê
đất còn nợ khoảng 219,4 tỷ đồng, chiếm khoảng
11,67% tiền thuê đất phải nộp).
Một số đề xuất, khuyến nghị
Xuất phát từ những tồn tại, hạn chế của công tác tài
chính đối với đất đai của các nông, lâm trường quốc
doanh, có một số đề xuất và khuyến nghị cụ thể sau: