Tạp chí Tài chính kỳ 2 số tháng 5-2016 - page 46

44
KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN
khâu xây dựng định mức chi phí và lập dự toán sản
xuất kinh doanh;
Thứ ba,
các khoản mục chi phí trong quá trình
phát sinh để duy trì hoạt động của công ty có biểu
hiện khá rõ nét dưới yếu tố định phí và biến phí. Các
chi phí về nguyên vật liệu, nhân lực mang yếu tố biến
phí, các chi phí về khấu hao đường dây, đường ống
cung cấp sản phẩm, tài sản cố định mang yếu tố định
phí. Điều đó thuận tiện cho nhà quản trị khi nhận
diện và phân loại chi phí theo mức độ hoạt động để
lập các báo cáo quản trị theo yêu cầu từng thời kỳ;
Thứ tư,
việc xuất hiện hai bộ phận cơ bản trong quá
trình hoạt động là bộ phận sản xuất và bộ phận tiêu
thụ sản phẩm và các bộ phận khác mang tính phụ trợ
sẽ là cơ sở để các công ty này hình thành nên các trung
tâm trách nhiệm, trung tâm chi phí, trong đó bộ phận
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm là các trung tâm chính, các
bộ phận, phòng ban còn lại là các trung tâm phụ;
Thứ năm,
tỷ trọng chi phí chung khá lớn so với
các khoản chi phí khác trong tổng chi phí của công
ty khiến nhà quản trị lưu ý đến lựa chọn tiêu chuẩn
phân bổ chi phí đảm bảo tính hợp lý. Sự phát sinh
và chuyển hoá của chi phí trong quá trình sản xuất
kinh doanh đòi hỏi công ty luôn quan tâm nhằm thu
thập đầy đủ, chính xác, kịp thời chi phí thực tế, hạn
chế bớt các chi phí cơ hội, tạo điều kiện tiền đề cho
các quyết định quản trị hợp lý và có hiệu quả.
Thứ sáu,
trong quá trình hoạt động, các công ty
cấp nước không dễ dàng tăng quy mô sản xuất do
việc tiêu thụ phụ thuộc lớn vào các điều kiện liên
quan đến cơ sở hạ tầng của một quốc gia như hệ
thống đường ống cấp nước, liên quan đến mức đầu
tư vốn… Điều này khiến nhà quản trị cần cân nhắc
kỹ khi ra quyết định đầu tư, mở rộng thị trường
hoặc tham gia vào thị trường mới bởi tỷ trọng chi
phí cố định trong các phương án đầu tư là rất lớn.
Với đặc trưng của DN sản xuất kinh doanh dịch
vụ nói chung và sự riêng biệt về tính chất sản phẩm
nước sách nói riêng, các nhà quản lý, quản trị cần có
sự quan tâm đúng đắn tới loại hình hoạt động này
nhằm đảm bảo quá trình sản xuất của các công ty
cấp nước phù hợp với các quy luật phát triển của
nền kinh tế thị trường, đem lại hiệu quả cho công ty
và cho toàn xã hội.
Tài liệu tham khảo:
1. PGS.,TS. Đoàn Xuân Tiên: Giáo trình Kế toán Quản trị - NXB Tài chính;
2. Nguyễn Đình Kiệm, Bạch Đức Hiển: Giáo trình kế toán quản trị
doanh nghiệp;
3. Báo cáo tổng kết: Công ty TNHH một thành viên Cấp nước Cao Bằng, Công
ty TNHH một thành viên kinh doanh nước sạch Lào Cai, Công ty TNHH một
thành viên kinh doanh nước sạch Hải Dương.
là nước phục vụ nhu sản xuất và tiêudùng, đảmbảo các
chỉ số theo quy định tại: QCVN 01: 2009/BYT; QCVN
02: 2009/BYT của Bộ Y tế ban hành ngày 17/6/2009. Có
thể thấy đặc điểmcủa loại sản phẩmnày quamột số nét
như: Nước sạch là sản phẩm đặc biệt, là nhu cầu thiết
yếu cho sự sống của con người; được phân phối theo hệ
thống phân phối riêng đến tận tay người sử dụng mà
không đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường; không
có tính thay thế (sản phẩm mang tính độc quyền cao).
Giá bán sản phẩm được ấn định trước trên các bảng giá
niêm yết do UBND các tỉnh phê duyệt cho từng năm
dựa trên quy định chung của Bộ Tài chính. Trên cơ sở
đó, UBND các tỉnh phê duyệt mức giá cho từng đơn
vị theo từng thời kỳ. Bên cạnh đó, nước sạch không có
thành phẩm nhập kho, tồn kho. Sản phẩm hoàn thành
được chuyển bán ngay thông qua mạng lưới đường
ống cấp nước nên đối tượng tính giá thành trùng với
đối tượng tập hợp chi phí.
Ngoài ra, chu kỳ sản xuất nước sạch ngắn và
không có sản phẩm dở dang cuối kỳ; Quá trình
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nước sạch không
thể tách rời nhau. Việc quản lý quá trình hoạt động
sản xuất, kinh doanh qua hai khâu chính là sản
xuất và tiêu thụ còn các khâu, các bộ phận khác
thực hiện chức năng hỗ trợ cho hoạt động chính
này. Giá thành sản xuất sản phẩm nước sạch cũng
bao gồm các khoản mục chi phí: chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí
sản xuất chung… Trong đó, chi phí điện sản xuất,
khấu hao tài sản cố định chiếm tỷ lệ cao, khoảng
75% trong tổng giá thành sản phẩm. Ngược lại, chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp lại không đáng kể so
với các chi phí còn lại.
Những tác động đến công tác kế toán quản trị
Từ những phân tích trên, có thể nói, trong các
công ty sản xuất kinh doanh dịch vụ nói chung và
công ty cấp nước nói riêng đặc điểm của sản phẩm,
của quy trình sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng rõ
nét đến công tác kế toán quản trị như:
Thứ nhất,
với tính chất sản phẩm đơn chiếc, quy
trình công nghệ sản xuất giản đơn, không có sản phẩm
dở dang cuối kỳ... nên đối tượng tính giá thành thường
trùng với đối tượng tập hợp chi phí. Các phương pháp
tập hợp chi phí trực tiếp được ưu tiên khi kế toán quản
trị chi phí giá thành. Phương pháp tính giá thành giản
đơn hay cộng chi phí cũng là phương án được lựa
chọnmà không cần cân nhắc đến lựa chọn các phương
pháp đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ;
Thứ hai,
việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm được
thực hiện trên cơ sở tiêu chuẩn định mức kỹ thuật
rõ ràng giúp nhà quản trị thuận tiện trong thực hiện
1...,36,37,38,39,40,41,42,43,44,45 47,48,49,50,51,52,53,54,55,56,...135
Powered by FlippingBook