78
KINH TẾ - TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
công tác giáo dục đào tạo còn thiếu về số lượng (trên
50% tổng số trường chưa đảm bảo tỷ lệ giảng viên/
sinh viên theo quy định), chưa đảm bảo chất lượng
(chỉ có 14% giảng viên có trình độ từ tiến sỹ trở lên,
35% có trình độ thạc sỹ); (iii) Chính sách thu hút,
quản lý, sử dụng, đãi ngộ nhân tài chưa hoàn thiện,
thiếu sức cạnh tranh...
Một số giải pháp cần thực hiện
Từ kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của các
quốc gia trên thế giới cũng như tình hình phát triển
nguồn nhân lực ở Việt Nam, thời gian tới chúng ta cần
tập trung vào triển khai thực hiện các giải pháp sau:
Một là,
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phải
được coi là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên của
toàn xã hội. Phát triển nguồn nhân lực phải phục vụ
mục tiêu, định hướng và yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và xây dựng hệ
thống chính trị.
Hai là,
cần ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực tại chỗ bao gồm: đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức, công nhân kỹ thuật. Tập trung đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực là cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức
hành chính nhà nước, chú trọng nhân lực khoa học và
công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh
giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề, nhân viên giỏi
góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Ba là,
cần đẩy mạnh xã hội hóa công tác đào tạo,
bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng
đội ngũ công chức hành chính theo hướng chuyên
nghiệp hóa. Đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với quy
hoạch, nhu cầu sử dụng, lấy đào tạo nghề, đào tạo
lao động kỹ thuật chất lượng cao làm làm khâu đột
phá trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực của
quốc gia và các địa phương.
Bốn là,
tăng cường xây dựng đội ngũ nhân lực có
quy mô, cơ cấu, chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hội nhập; tạo ra
lực lượng lao động có trình độ, kỹ năng, kỹ thuật ngày
càng cao. Đào tạo cán bộ công chức, cán bộ lãnh đạo,
cán bộ quản lý có phẩm chất và năng lực, có phong
cách làm việc hiện đại, chuyên nghiệp, có khả năng hội
nhập kinh tế quốc tế để thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội.
Tài liệu tham khảo:
1.
cao-can-cach-tiep-can-moi-672503/;
2. Nguyễn Thị Minh Phước (2015): Phát triển nguồn nhân lực: Kinh nghiệm ở một
số nước trên thế giới;
3. Trịnh Xuân Thắng (2014): Kinh nghiệm đào tạo nhân lực của một số quốc gia
trên thế giới và bài học tham khảo cho Việt Nam.
Thực trạng nguồn nhân lực củaViệt Nam
Gần đây, một số tổ chức như Phòng Thương
mại châu Âu (EuroCham); Phòng Thương mại Mỹ
(AmCham), Ngân hàng Thế giới (WB) và một số
chuyên gia quốc tế có uy tín đã đưa ra những phân
tích, đánh giá về thực trạng nguồn nhân lực của Việt
Nam hiện nay với một số nhận định sau:
Về mặt thuận lợi:
(i) Việt Nam có quy mô dân số
lớn (khoảng hơn 90 triệu dân, xếp thứ 13 thế giới,
thứ 3 Đông Nam Á), tốc độ tăng trưởng cao (tỷ lệ
tăng dân số cơ học của Việt Nam mỗi năm tương
đương một tỉnh), cơ cấu dân số thuận lợi (hơn 60%
trong độ tuổi lao động) để hình thành nguồn nhân
lực phát triển kinh tế - xã hội; (ii) Lao động Việt
Nam có truyền thống cần cù, chịu khó, chi phí nhân
công vẫn ở mức hợp lý so với các nước trong khu
vực (Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia,
Singapore…); (iii) Đội ngũ cán bộ khoa học công
nghệ ngày càng được tăng cường về số lượng, bước
đầu đã tiếp cận được nhiều tiến bộ khoa học công
nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, các chỉ số phát triển nguồn nhân lực
để đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia và tính hấp
dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam còn chưa cao,
cụ thể: (i) Chất lượng chung của nguồn nhân lực vẫn
ở mức thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới: Chất lượng và chỉ số cạnh tranh nguồn nhân
lực chỉ đạt lần lượt là 3,79/10 điểm (xếp thứ 11/12 nước
châu Á theo bảng xếp hạng của WB); tỷ lệ lao động
chưa qua đào tạo nghề chiếm gần 85% (thành thị 70%,
nông thôn 91%); (ii) Cơ cấu phân bổ lao động theo
ngành nghề mất cân đối: Tỷ lệ lao động làm việc cho
các ngành cần tăng tốc phát triển giai đoạn 2011 – 2020
phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước như: Công nghệ thông tin, công nghiệp phụ
trợ, y tế, giáo dục đào tạo… chỉ chiếm xấp xỉ 1% mỗi
ngành, trong khi có tới 47,4% lao động làm việc trong
khu nông – lâm – ngư nghiệp hoặc lao động giản đơn;
(iii) Cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực không hợp lý: Tỷ
lệ đào tạo đại học, cao đẳng so với trung cấp, công
nhân kỹ thuật nghề là 7/3 dẫn tới thực trạng “thừa
thầy, thiếu thợ”.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên là
do: (i) Công tác giáo dục đào tạo chưa theo kịp nhu
cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế;
hệ thống giáo dục đào tạo chưa có cải cách đáng kể,
thiếu liên kết hữu cơ với nhu cầu thị trường, dẫn đến
cơ cấu lao động phân bổ theo ngành nghề chưa hợp
lý; (ii) Chất lượng giáo dục đào tạo còn hạn chế, nội
dung chưa gắn nhiều với thực tiễn sản xuất, nhu cầu
của doanh nghiệp sử dụng lao động, đội ngũ làm