TÀI CHÍNH -
Tháng 8/2015
43
Hầu hết các công ty đều chi trả cổ tức, dẫn đến giả
định này được xem như là vô lý. Tuy nhiên, nghiên
cứu đã chỉ ramô hình có thể được điều chỉnh, để không
phụ thuộc vào chính sách chi trả cổ tức, tương tự như
chứng minh của Miller và Modigliani về giá trị DN.
Giả thiết 3:
Quyền chọn kiểu châu Âu được áp dụng
So với quyền chọn kiểu Mỹ thì quyền chọn kiểu
châu Âu kém linh hoạt hơn khi chỉ cho phép thực hiện
khi hết hạn. Tuy nhiên, giả định này không gây ra sai
lệch nghiêm trọng bởi thực tế rất ít quyền chọn được
thực hiện trước khi hết hạn. Trong trường hợp này,
nhà đầu tư sẽ chỉ nhận được giá trị nội tại và giảm đi
giá trị thời gian của quyền chọn.
Giả thiết 4:
Không có chi phí giao dịch và thuế
Về bản chất, chi phí giao dịch và thuế là các yếu tố
mang tính cá nhân, khác biệt đối với từng người tham
gia thị trường cụ thể. Do vậy đưa các yếu tố này vào
mô hình hiện tại vẫn chưa khả thi, tuy nhiên giả định
này cũng là một cảnh báo về khả năng kết quả từ mô
hình bị móp méo.
Giả thiết 5:
Lãi suất là biết trước và ổn định
Mô hình sử dụng lãi suất phi rủi ro từ trái phiếu
chính phủ. Do quyền chọn thường được sử dụng trong
ngắn hạn nên giả định lãi suất không đổi là có thể chấp
nhận được.
Giả thiết 6:
Lợi nhuận cổ phiếu phân phối theo hàm
logarit chuẩn
Phân phối trên được chứng minh là hợp lý đối với
hầu hết các tài sản tài chính áp dụng quyền chọn. Thực
tế, Black và Scholes đã phát triển mô hình của James
Boness với việc sử dụng lãi suất phi rủi ro như một
hệ số chiết khấu hợp lý và bỏ qua giả thuyết về thái
độ với rủi ro của nhà đầu tư. Một quyền chọn sẽ được
Định giá quyền chọn thị trường chứng khoán
phái sinh
Góc nhìn lý thuyết
Định giá quyền chọn chính là đưa giá trị của quyền
chọn về thời điểmhiện tại để xác định khả năng bị định
giá thấp hay bị định giá cao, qua đó đưa ra quyết định
đầu tư hay quản lý phù hợp.
Phân tích giá trị quyền chọn, các nhà nghiên cứu
biểu diễn lợi nhuận của người mua quyền chọn ở dạng
cực đại, điều đó có nghĩa là nếu S - E > 0, thì người
mua quyền chọn sẽ thực hiện giao dịch, lợi nhuận là
(S - E); nếu S – E < 0, người mua quyền chọn sẽ không
thực hiện giao dịch, lợi nhuận bằng 0. Qua phân tích
giá trị quyền chọn cũng chỉ ra rằng, nếu giá trị của
quyền chọn thấp hơn khoản lợi nhuận này, người bán
sẽ không có nhu cầu bán quyền chọn. Do đó, công thức
trên được gọi là “giá trị nội tại”, hay hiểu đơn giản hơn
là giá trị cực tiểu của quyền chọn.
Dựa vào phân tích trên, các nhà nghiên cứu quyền
chọn thị trường chứng khoán (TTCK) phái sinh Black
và Scholes đã đặt ra các giả thiết cho mô hình của mình
như sau:
Giả thiết 1:
Thị trường hoàn hảo
Một trong những giả định quan trọng của tất cả
các mô hình định giá, đó là, sẽ không có cơ hội kinh
doanh chênh lệch giá với quyền chọn, tức là với một
loại quyền chọn duy nhất tất cả các thị trường đều cân
bằng tại một mức giá duy nhất. Điều này làm mất đi
sự biến động trong giá bán theo khu vực (giá ở nơi
này giảm, nơi khác tăng) trong khoảng thời gianmà thị
trường có chênh lệch giá, từ đó đơn giản hóa mô hình.
Giả thiết 2:
Cổ phiếu không chi trả cổ tức trong thời
hạn của quyền chọn
VÀI GỢI Ý CHOĐỊNHGIÁ QUYỀN CHỌN
THỊTRƯỜNGCHỨNGKHOÁNPHÁI SINH
TS. TRẦN THỊ LƯƠNG BÌNH, TRẦN DUY LONG
- Đại học Ngoại thương
Quyền chọn là công cụ tài chính bậc cao, có thể thực hiện chức năng đa dạng từ đầu tư
tới phòng vệ rủi ro. Bài viết phân tích lý thuyết về định giá quyền chọn thị trường chứng
khoán phái sinh và kinh nghiệm thực tiễn tại thị trường chứng khoán Australia. Từ đó, gợi
mở những định hướng về định giá quyền chọn cho thị trường chứng khoán Việt Nam.