K2 T2 - page 20

20
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
thông tin một cách cụ thể, bởi vì các DN này được
Chính phủ cung cấp những ưu đãi bao gồm việc
cung cấp vốn một cách dễ dàng thông qua các ngân
hàng liên kết với Chính phủ. Do đó, sẽ gia tăng
động cơ sử dụng các ưu đãi thuế để giảm mức thuế
phải nộp và khuyến khích các kế hoạch lập thuế.
Salihu và cộng sự (2014) đã sử dụng tỷ lệ thuế hiệu
dụng ETR với 4 cách tính khác nhau để đo lường
mức độ né tránh thuế. Kết quả thực nghiệm cho
thấy, tác động cùng chiều của sở hữu nhà nước lên
mức độ né tránh thuế được lý giải, bởi các DNNN
thường có ít rủi ro liên quan đến việc phát hiện
né tránh thuế và những hình phạt do hành vi né
tránh thuế.
Ngược lại, Chan và cộng sự (2013) đã sử dụng
dữ liệu của các DN được niêm yết trên thị trường
Trung Quốc để xem xét sự tác động của sở hữu
nhà nước lên chiến lược tránh thuế của các DN
này. Tác giả đã phát hiện ra rằng, những DN có
nhà nước là cổ đông kiểm soát thì ít có những biện
pháp tránh thuế hơn các DN tư nhân. Ở Trung
Quốc, những DN có cổ đông kiểm soát là Nhà
nước thường có những DN trong những ngành
chiến lược và thường tập trung vào những chiến
lược mang tính chính trị và xã hội, không nhất
thiết phải là tối đa hóa giá trị DN. Do đó, ít chú
trọng đến những chiến lược tránh thuế. Nghiên
cứu của Wu và cộng sự (2013) cho thấy, mức độ
tránh thuế của các DNNN thấp hơn DN tư nhân,
bởi vì chính quyền địa phương thường sử dụng
những chính sách ưu đãi thuế hỗ trợ cho các DN
tư nhân. Vì vậy, những DN tư nhân có nhiều động
cơ và công cụ để tránh thuế hơn.
Từ những kết quả nghiên cứu trên có thể thấy,
mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sự né tránh
thuế còn chưa rõ ràng. Mối quan hệ này phụ thuộc
nhiều vào đặc điểm về kinh tế, chính trị của quốc
gia. Ở Việt Nam, vẫn chưa có những nghiên cứu
nào tìm hiểu về mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước
và né tránh thuế, mặc dù đã xuất hiện rất nhiều vụ
né tránh thuế của các DN.
Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
Để xem xét mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và
mức độ né tránh thuế, nhóm tác giả thực hiện ước
lượng theo hàm số sau dựa trên các nghiên cứu thực
nghiệm trước đây (Chan và cộng sự, 2013; Salihu và
cộng sự, 2014; Richardson và cộng sự, 2015):
(1)
Phương trình (1) được miêu tả như sau:
(2)
Trong đó,
là mức độ né tránh thuế của
DN, càng cao thể hiện mức độ né tránh thuế càng
thấp. Trong bài nghiên cứu này, bài viết sử dụng 4
cách đo lường mức độ né tránh thuế hiện nay. Cách
đo lường 1, CTA1 được đo lường bởi tỷ số của thuế
thu nhập DN trên lợi nhuận trước thuế của DN;
CTA2 là tỷ lệ của thuế thu nhập DN hiện thời trên
lợi nhuận trước thuế của DN; CTA3 là tỷ lệ của
thuế thu nhập DN trên dòng tiền của DN và CTA4
là tỷ lệ thuế thu nhập DN hiện thời trên dòng tiền
của DN (Chen và cộng sự, 2010; Dyreng và cộng
sự, 2010; Salihu và cộng sự, 2014).
Trong đó,
được đại diện thông qua 4 biến
số
,
lần lượt là mức độ sở
hữu nhà nước của DN, biến giả đại diện các DN
có mức độ sở hữu nhà nước trên 50%, biến giả đại
diện các DN có mức độ sở hữu nhà nước trên 30%.
Các biến kiểm soát được sử dụng bao gồm, biến
được tính toán bởi logarithm tự nhiên của
tổng tài sản;
được đo lường bởi tỷ lệ tổng nợ
trên tổng tài sản để đánh giá ảnh hưởng của tấm
chắn thuế đến mức độ né tránh thuế;
nhằm
để xác định ảnh hưởng của cấu trúc tài sản đến
mức độ né tránh thuế, được tính toán bởi tỷ lệ tài
sản cố định hữu hình trên tổng tài sản; và
biến thường được sử dụng để giải thích sự thay đổi
của mức độ né tránh thuế (Chen và cộng sự, 2010;
Chan và cộng sự, 2013; Salihu và cộng sự, 2014;
Richardson và cộng sự, 2015).
Sau khi thu thập dữ liệu trên các báo cáo tài
chính của các DN được niêm yết trên hai Sàn Chứng
khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HNX)
trong khoảng thời gian từ 2009 – 2015, nhóm tác
giả thực hiện loại trừ các DN không có dữ liệu liên
tục trong 7 năm, đồng thời loại bỏ DN có giá trị
CTA1, CTA2, CTA3 và CTA4 nhỏ hơn 0 và lớn hơn
1 như theo đề nghị của Salihu và ctg (2014). Do đó,
Các doanh nghiệp có mức độ sở hữu nhà nước
càng cao càng ít có hành vi né tránh thuế vì
thường được định hướng chiến lược mang tính
chính trị và xã hội, góp phần phát triển kinh tế,
không nhằm mục tiêu tối đa hóa giá trị doanh
nghiệp, sẽ ít có các chiến lược né tránh thuế so
với các doanh nghiệp có mức độ sở hữu nhà
nước thấp.
1...,10,11,12,13,14,15,16,17,18,19 21,22,23,24,25,26,27,28,29,30,...120
Powered by FlippingBook