So ky 2 thang 6 - page 83

TÀI CHÍNH -
Tháng 6/2017
81
ngờ này. Tất cả các phản hồi đều có thể có rủi ro
bị che đậy, sửa đổi hoặc gian lận, do đó KTV cần
xem xét các yếu tố làm phát sinh nghi ngờ về độ
tin cậy của thông tin phản hồi như: (1) Thư phúc
đáp được KTV gián tiếp nhận; (2) Thư phúc đáp
có thể không do bên xác nhận gửi. Trong trường
hợp này, KTV cần quyết định điều chỉnh hoặc bổ
sung các thủ tục kiểm toán để giải quyết nghi ngờ
về độ tin cậy của tài liệu, thông tin được sử dụng
làm bằng chứng kiểm toán. KTV có thể xác minh
nguồn gốc và nội dung của thông tin phản hồi thư
xác nhận bằng cách liên hệ trực tiếp với bên xác
nhận. Nếu KTV xác định rằng, thông tin phản hồi
thư xác nhận không đáng tin cậy, KTV phải xem
xét ảnh hưởng đến đánh giá về rủi ro có sai sót
trọng yếu liên quan, kể cả rủi ro do gian lận và ảnh
hưởng đến nội dung, lịch trình và phạm vi các thủ
tục kiểm toán khác.
Trong trường hợp không nhận được phản hồi,
KTV phải thực hiện các thủ tục kiểm toán thay
thế để thu thập bằng chứng kiểm toán phù hợp
và đáng tin cậy. Các thủ tục kiểm toán thay thế
mà KTV có thể thực hiện bao gồm: Kiểm tra các
phiếu thu sau ngày kết thúc kỳ kế toán, vận đơn
và doanh thu bán hàng tại thời điểm gần kết thúc
kỳ kế toán.
Trong trường hợp phản hồi cho thấy, sự khác
nhau giữa thông tin cần xác nhận, hoặc thông tin
trong sổ kế toán của đơn vị và thông tin do bên xác
nhận cung cấp. Bên cạch đó, các ngoại lệ cũng giúp
phân biệt chất lượng của các phản hồi từ các bên
xác nhận và các khiếm khuyết trong kiểm soát nội
bộ của đơn vị đối với việc lập và trình bày BCTC.
Trong một số trường hợp sự khác nhau này không
cho thấy sai sót do yếu tố thời gian, định lượng
hoặc lỗi ghi chép trong thư xác nhận.
Tóm lại, thủ tục gửi thư xác nhận công nợ phải
thu đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kiểm
toán BCTC. Đó là thủ tục quan trọng để KTV thu
thập bằng chứng về sự hiện hữu của khoản mục
này. Cụ thể là giúp cho KTV và doanh nghiệp kiểm
toán thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích
hợp trong quá trình kiểm toán tại các đơn vị.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2011), Luật Kiểm toán độc lập;
2. Bộ Tài chính (2012), Chuẩn mực kiểm toán số 200, 500, 501;
3. TS. Nguyễn Viết Lợi, ThS. Đậu Ngọc Châu (2012), Giáo trình lý, thuyết
kiểm toán, NXB Tài chính, Hà Nội;
4. TS. Nguyễn Viết Lợi, ThS. Đậu Ngọc Châu (2012), Giáo trình Kiểm toán
BCTC, Công ty Cổ phần In Sao Việt, Hà Nội.
hiện hữu khoản nợ phải thu, KTV yêu cầu bên xác
nhận phúc đáp lại trong mọi trường hợp, phản hồi
này thường cung cấp bằng chứng kiểm toán đáng
tin cậy. Tuy nhiên, nếu thư xác nhận khẳng định
đã điền sẵn số liệu thì có rủi ro là bên xác nhận có
thể trả lời thư xác nhận mà không xác minh thông
tin có chính xác hay không. KTV có thể giảm rủi ro
này bằng cách sử dụng thư xác nhận dạng khẳng
định nhưng không ghi rõ số liệu trên thư và yêu
cầu bên xác nhận điền số liệu, hoặc cung cấp thông
tin khác nhưng có thể làm giảm tỷ lệ phúc đáp do
bên xác nhận phải bỏ ra nhiều công sức hơn để trả
lời. KTV có thể gửi thư xác nhận các lần tiếp theo
khi chưa nhận được phản hồi cho thư xác nhận
trước trong một khoảng thời gian hợp lý.
Thư xác nhận dạng phủ định cung cấp bằng
chứng kiểm toán ít thuyết phục hơn xác nhận
dạng khẳng định, do đó KTV không được sử
dụng thư xác nhận phủ định như là thử nghiệm
cơ bản duy nhất nhằm xử lý rủi ro có sai sót
trọng yếu đã được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn
liệu. Thư xác nhận phủ định chỉ yêu cầu phúc
đáp trong trường hợp bên xác nhận không đồng
ý với số liệu được nêu trong thư. Tuy nhiên, việc
không nhận được phản hồi cho thư xác nhận
dạng phủ định không phải là bằng chứng rõ ràng
cho thấy, bên xác nhận đã nhận thư xác nhận
hoặc sự chính xác của số liệu trong thư xác nhận
đã được xác minh. Kể cả trong trường hợp nhận
được sự phúc đáp để bày tỏ sự không đồng ý với
nội dung của thư xác nhận, khi thông tin trong
thư là không có lợi cho họ, tức là sự sẵn lòng
phúc đáp còn phụ thuộc vào nội dung của sự sai
lệch, trong một số trường hợp sự sai lệch này lại
làm giảm tỷ lệ phúc đáp.
Dù là sử dụng thư xác nhận dạng phủ định
hay khẳng định thì việc đánh giá kết quả của thủ
tục xác nhận là khâu quan trọng. Nếu KTV nhận
thấy có các yếu tố làm phát sinh nghi ngờ về độ
tin cậy của thông tin phản hồi thư xác nhận, KTV
phải thu thập thêm bằng chứng để giải tỏa các nghi
Tất cả các phản hồi đều có thể có rủi ro bị che
đậy, sửa đổi hoặc gian lận, do đó kiểm toán
viên cần xem xét các yếu tố làm phát sinh nghi
ngờ về độ tin cậy của thông tin phản hồi như:
(1) Thư phúc đáp được kiểm toán viên gián tiếp
nhận; (2) thư phúc đáp có thể không do bên
xác nhận gửi.
1...,73,74,75,76,77,78,79,80,81,82 84,85,86,87,88,89,90,91,92,93,...120
Powered by FlippingBook