132
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
Thách thức trong giải bài toán về vốn
Để thực hiện được mục tiêu đề ra trong Quy
hoạch điện VII (giai đoạn 2011-2030), ngành Điện
sẽ cần khoảng 929,7 nghìn tỷ đồng (tương đương
với 48,8 tỷ USD, trung bình mỗi năm cần khoảng
4,88 tỷ USD) vốn đầu tư (đến năm 2020) và sẽ tăng
lên 7,5 tỷ USD (đến năm 2030). Trong đó, đầu tư
vào nguồn điện là 619,3 nghìn tỷ đồng, đầu tư vào
lưới điện là 210,4 nghìn tỷ đồng.
Khảo sát thực tế cho thấy, với nỗ lực của 3 trụ
cột chính là: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN),
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) và Tập
đoàn Công nghiệp - Than khoáng sản Việt Nam
(TKV), thời gian qua ngành Điện đã vượt mọi khó
khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ cung ứng điện cho
nền kinh tế. Tuy nhiên, để cung cấp đầy đủ nhu
cầu điện trong nước, sản lượng điện sản xuất và
nhập khẩu năm 2015 khoảng 194-210 tỷ kWh, năm
2020 là khoảng 330-362 tỷ kWh và từ 695 - 834 tỷ
kWh vào năm 2030 theo Quy hoạch điện VII thì nỗ
lực của 3 tập đoàn trên là chưa đủ. Bởi vì, để cụ thể
hóa những mục tiêu trên, ngành Điện sẽ phải đầu
tư hàng chục, thậm chí hàng trăm công trình, dự án
điện lớn nhỏ. Như vậy, thách thức đặt ra cho ngành
Điện là rất lớn, vì các dự án nhiệt điện thường cần
nguồn vốn tới hàng tỷ USD nên các nhà đầu tư tư
nhân khó lòng kham nổi và trọng trách chính vẫn
phải đặt lên vai những tập đoàn kinh tế lớn của
nhà nước như EVN, PVN, TKV...
Được biết, trong lịch sử, chưa bao giờ ngành
Điện huy động vốn quá 3 tỷ USD/năm, nhưng
hiện nay Quy hoạch điện VII yêu cầu nguồn vốn
tới 5-7,5 tỷ USD/năm là điều không đơn giản. Số
vốn đầu tư thì quá lớn, trong khi khả năng tích
lũy của các “trụ cột” trên lại quá thấp. Chỉ tính
riêng EVN, tính đến năm 2015, tổng vốn đầu tư
của EVN dự kiến khoảng 832.000 tỷ đồng, tức
mỗi năm cần 5-6 tỷ USD nhưng EVN chỉ có khả
năng huy động 1/3 tổng mức đầu tư cho các dự
án điện; 2/3 còn lại chủ yếu là vốn vay từ ODA và
các nguồn khác. Tương tự EVN, hiện TKV chỉ làm
chủ đầu tư 10 công trình điện nhưng hầu hết đều
chậm tiến độ, nguyên nhân chính vẫn là do vướng
mắc về vốn….
Đánh giá của giới chuyên gia cho thấy, nếu Việt
Nam không đẩy nhanh lộ trình hình thành thị
trường bán lẻ điện, nới lỏng cơ chế giá, đưa giá
điện về giá trị thật sẽ rất khó khuyến khích được
các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham
gia đầu tư, phát triển. Việc bao cấp giá điện quá lâu
đã làm méo mó thị trường, nhất là trong điều kiện
giá nhiên liệu đầu vào đang áp sát giá thị trường,
các doanh nghiệp (DN) điện lực nếu có lợi nhuận
thì cũng rất khiêm tốn. Đây là nguyên nhân chính
khiến ngành Điện khó thu hút được vốn đầu tư
từ các nhà đầu tư tư nhân, ngân hàng cũng không
mặn mà cho vay phát triển dự án điện.
Mặt khác, Việt Nam lại mới chỉ ở giai đoạn đầu
thực hiện thị trường phát điện cạnh tranh nên chưa
tạo được sức “hút” đối với các nhà đầu tư, đặc biệt
là nhà đầu tư nước ngoài. Điển hình, trong giai
đoạn khủng hoảng kinh tế, khi bị hạn chế mức tăng
trưởng tín dụng, nhiều khoản vay không được giải
ngân dẫn đến tiến độ thi công của một số dự án
nguồn và lưới điện bị chậm trễ (Thủy điện Đồng
Nai 3,4; dự án Hải Phòng 2, Quảng Ninh 2)…
BÀITOÁNHUYĐỘNGVỐNĐẦUTƯ
VÀO PHÁT TRIỂN CÁC CÔNGTRÌNHĐIỆN
ThS. LÊ THỊ HUYỀN
Tình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước đã có những dấu hiệu phục hồi, tạo thuận lợi cho
ngành Điện Việt Nam thu xếp vốn và kịp thời giải ngân, nâng cao hiệu quả đầu tư các công
trình điện, tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư cho toàn ngành đến năm 2020 và năm 2030 vẫn
là bài toán khó để hoàn thành.