TCTC so 3 bong cuoi - page 48

52
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
động sản xuất kinh doanh lại giảm sút, do đó việc
sử dụng nợ vay được coi là chưa có hiệu quả. Cơ cấu
nguồn vốn của các TĐ, TCT chưa hợp lý. Hệ số nợ
rất cao cho thấy mức độ tự chủ tài chính rất thấp.
Trong nợ phải trả của các TĐ, TCT chủ yếu là nợ vay
ngân hàng. Với lãi suất tiền vay rất cao. Tuy nhiên,
việc sử dụng vốn vay không hiệu quả đã gây áp lực
thanh toán lãi vay và đòn bẩy tài chính có tác động
nghịch làm giảm ROE hoặc EPS của TĐ, TCT.
Bên cạnh đó, công tác quản lý, giám sát tài chính,
đầu tư vốn nhà nước tại DN cũng đã bộc lộ nhiều
hạn chế và bất cập, chưa theo kịp yêu cầu quản lý
nền kinh tế trong điều kiện mới. Cụ thể:
- Về xây dựng cơ chế chính sách:
Mặc dù đã tạo lập
được một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
về giám sát và đầu tư vốn nhà nước tại DN nhưng
một số cơ chế, chính sách còn chưa bao quát được hết
các loại hình hoạt động DN thuộc mọi thành phần
kinh tế. Đặc biệt là cơ chế tài chính cho các tập đoàn
kinh tế; chế độ về quản lý rủi ro, báo cáo và công bố
thông tin, đánh giá xếp loại DN; cơ chế tài chính cho
các hoạt động mua bán sáp nhập DN, đầu tư ra nước
ngoài, cổ phần hóa DN FDI, góp vốn bằng thương
hiệu, thành lập DN BTO, BOT, BT, BOO; thanh lý phá
sản dự án lớn thua lỗ vỡ nợ, xử lý về mặt tài chính đối
với DN liên quan bán phá giá... Bên cạnh đó, cơ chế
phân công, phân cấp trong thực hiện các quyền chủ
sở hữu tại TĐ, TCT còn bị phân tán, chồng chéo, cắt
khúc, trách nhiệm chưa rõ ràng nên dẫn đến buông
lỏng quản lý, giám sát. Do đó, dẫn đến một số DN
kinh doanh thua lỗ nhưng chậm được xử lý, gây thất
thoát vốn và tài sản nhà nước.
- Về tổ chức thực hiện giám sát:
Công tác kiểm tra
giám sát tài chính tại các TĐ, TCT chưa được thực
hiện thường xuyên, nên những sai phạm trong việc
đầu tư, quản lý tài chính tại các TĐ, TCT không
được phát hiện kịp thời, khả năng phát sinh tổn thất
lớn. Mặt khác, do thực hiện cơ chế “hậu kiểm” nên
các cơ quan quản lý nhà nước không thực hiện việc
kiểm tra quyết toán báo cáo tài chính như trước đây
mà thay vào đó là cơ chế quản lý và đánh giá hiệu
quả hoạt động của DNNN. Tuy nhiên, do chưa có
quy định và chế tài cụ thể ràng buộc trách nhiệm
của kiểm toán viên, công ty kiểm toán độc lập cũng
như chất lượng đội ngũ kiểm toán viên còn thấp,
nên phản ánh còn chưa chính xác kết quả sản xuất
kinh doanh của DN. Thêm vào đó, công tác kiểm
toán, thanh tra nhà nước còn mang tính kế hoạch
hoặc khi có dấu hiệu sai phạm mới thực hiện nên
tính phòng ngừa rủi ro chưa cao.
Thực tế, việc tổng hợp, phân tích, đánh giá hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các TĐ, TCT
nhà nước trong những năm gần đây đã được Bộ Tài
chính thực hiện (sau khi kết thúc năm tài chính)
nhưng chưa đầy đủ. Nguyên nhân là do thiếu sự
quan tâm phối hợp của các cơ quan được phân công
thực hiện quyền chủ sở hữu cũng như việc chấp
hành chế độ báo cáo của các TĐ, TCT chưa nghiêm
túc và chưa kịp thời nên tác dụng cảnh báo và ngăn
chặn còn hạn chế.
Giải pháp giảm nợ, quản lý hiệu quả nguồn vốn
Thứ nhất,
cần nâng cao chất lượng công tác quản
trị nợ trong các TĐ, TCT. Muốn vậy trước hết cần
xây dựng quy chế quản lý nợ phải thu trong các TĐ,
đảm bảo tuân thủ kỷ luật thanh toán. Hơn nữa cần
tăng cường vai trò của công cụ kế toán trong quản
lý công nợ. Ngoài ra cần trích lập dự phòng đối với
các khoản phải thu khó đòi.
Thứ hai,
cần đảm bảo đủ công cụ và phương tiện
cần thiết để DN có thể thực hiện được công tác quản
trị nợ. Cần thiết phải đảm bảo lành mạnh hóa tình
hình tài chính của DN. Trong xử lý nợ cần nỗ lực và
quyết tâm.
Thứ ba,
Nhà nước cần có chế tài đủ mạnh để xử
lý những người quản lý DN không đủ năng lực
chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Nhà nước cần
tạo tính đồng bộ và thống nhất về môi trường pháp
lý cho việc xử lý nợ quá hạn trong DN. Hoàn thiện
chế độ báo cáo tài chính của DN và chế tài xử phạt
đối với DN không chấp hành chế độ báo cáo.
Thứ tư,
cần tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu các TĐ,
TCT; Đẩy mạnh cổ phần hóa và khuyến khích DNNN
niêm yết trên sàn chứng khoán trong và ngoài nước;
Sắp xếp, cơ cấu lại tài sản, nợ của DNNN; Thực hiện
thoái vốn ngoài ngành chính bằng các hình thức thị
trường (chào bán, đấu thầu công khai…) và theo giá thị
trường; Tăng cường kiểm soát, quản lý vốn và tài sản
Nhà nước trong DN nhằm hạn chế thất thoát trong quá
trình tái cơ cấu; Tái cấu trúc quản trị DN, xây dựng và
ban hành nguyên tắc quản trị hiện đại, phát huy vai trò
của hội đồng quản trị, ban kiểm soát trong kiểm tra tài
chính, giám sát trách nhiệm chức vụ…
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo của Chính phủ về tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản
xuất, kinh doanh năm 2013 của các doanh nghiệp (DN) do Nhà nước nắm
giữ 100% vốn điều lệ và DN có cổ phần, vốn góp của Nhà nước năm 2014;
2. Báo cáo tình hình thực hiện tái cơ cấu tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước, tái cấu trúc thị trường chứng khoán và các DN bảo hiểm (Bộ Tài chính
năm 2014);
3. Kỷ yếu hội thảo khoa học “Lý luận và phương pháp luận nghiên cứu về mô
hình tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Hội đồng
khao học các cơ quan Đảng Trung Ương- 2010.
1...,38,39,40,41,42,43,44,45,46,47 49,50,51,52,53,54,55,56,57,58,...144
Powered by FlippingBook