72
KINH TẾ - TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
thiện với DN vì dễ tiếp cận, thông tin minh bạch,
hướng dẫn đầy đủ.
Ba là,
trong bối cảnh lực lượng lao động trong
nước có hạn, lao động nước ngoài bị hạn chế số
lượng, Singapore đã xây dựng 2 trường đại học
đào tạo logistics từ bậc đại học đến tiến sỹ; hợp
tác với Mỹ thành lập Học viện Logistics châu Á -
Thái Bình Dương để bồi dưỡng nhân viên quản lý
logistic, quản lý chuỗi cung ứng chuyên nghiệp để
hình thành đội ngũ lao động chất lượng cao trong
ngành Logistics. Hầu hết các công ty logistics của
Singapore đều có hợp tác đào tạo với các tổ chức,
hiệp hội logistics của quốc tế và khu vực.
Bốn là,
Chính phủ Singapore đã tiến hành kết nối
5 mạng lưới logistics (mạng thương mại, mạng cảng
vụ, mạng hàng hải, mạng vận tải khí hóa lỏng đảo
Jurong, mạng vận tải hàng không) với nhau để chia
sẻ thông tin, phát huy sức mạnh tổng hợp của các
phương thức vận chuyển, các nguồn vận chuyển tạo
thành hệ thống liên kết hữu cơ để nâng cao hiệu
quả quản lý chuỗi cung ứng, tiết kiệm nhân lực, tài
chính, thời gian…
Năm là,
bên cạnh các dịch vụ công ty cung ứng
logistics nhận mình là bên thứ 2 (2PL), 3PL truyền
thống, Singapore đã thực hiện dịch vụ 4PL, 5PL và
quản lý toàn bộ chuỗi cung ứng và dây chuyền lưu
thông phân phối bằng công nghệ thông tin điện tử
(MSC) để bắt kịp các nước trên thế giới.
Cùng với đó, Singapore cũng đang tiến hành
thí điểm dịch vụ dừng một lần mua tất cả những
gì khách hàng cần (One-stop), hỗ trợ DN logistics
sử dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh
doanh, đồng thời, tạo môi trường thông thoáng với
nhiều ưu đãi để thu hút nhà đầu tư trong và ngoài
nước vào lĩnh vực logistics điện tử.
Bài học cho Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm phát triển
dịch vụ logistics của Singapore, chúng tôi đề xuất
một số giải pháp để phát triển hiệu quả dịch vụ
logistics tại Việt Nam.
Một là,
Nhà nước cần có các biện pháp, chính
sách hướng dẫn, thúc đẩy việc liên kết giữa các DN
logistics, hình thành những công ty logistics có quy
mô và năng lực hoạt động mạnh, có khả năng cạnh
tranh với các công ty logistics nước ngoài; Tăng
cường phối hợp giữa các bộ, ngành: Tổng cục Hải
quan, Bộ Công Thương… tháo gỡ những vướng
mắc của các DN, xây dựng định hướng phát triển
cho hoạt động cung cấp dịch vụ logistic, để từ đó đề
ra các biện pháp khai thác các tập đoàn logistics, các
trung tâm logistics, tránh tụt hậu với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Hai là,
tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho
hoạt động logistics, phù hợp với xu thế phát triển
hiện nay, tạo thuận lợi thương mại và thúc đẩy phát
triển ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam. Đồng
thời, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
trong quá trình làm thủ tục hải quan, ứng dụng
thương mại điện tử… nhằm tạo điều kiện cho DN
xuất, nhập khẩu và DN dịch vụ logistics cắt giảm
chi phí, nâng cao lợi thế cạnh tranh.
Ba là,
thực hiện quy hoạch, đầu tư, nâng cấp cơ
sở vật chất hạ tầng đồng bộ, nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển ngày càng lớn của ngành Logistics. Đẩy
nhanh xây dựng, hoàn thiện hệ thống cảng biển, sân
bay, cảng thông quan nội địa, đường bộ, kho bãi,
trang thiết bị và các định chế có liên quan phục vụ
phát triển ngành dịch vụ logistics.
Bốn là,
tập trung, ưu tiên phát triển nguồn nhân
lực dể phục vụ cho ngành dịch vụ logistics. Xây dựng
chính sách hỗ trợ cho DN, các trường đại học, cao
đẳng… đẩy mạnh công tác đào tạo với nhiều hình
thức linh hoạt, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng
cao để bắt kịp với sự phát triển ngày càng nhanh
của ngành logistics. Tăng cường hợp tác quốc tế, xây
dựng chương trình, liên kết đào tạo nguồn nhân lực
cho ngành logistics với các cơ sở nước ngoài.
Năm là,
đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông
tin, tăng cường liên kết giữa các DN trong nước với
DN nước ngoài. Khuyến khích sự cộng tác giữa các
thành viên trên cơ sở tận dụng lợi thế từng DN như
các lợi thế về cơ sở vật chất, lợi thế về trang thiết bị,
hệ thống thông tin… để thực hiện dịch vụ tích hợp
trọn gói cho khách hàng, mở rộng về quy mô cung
như phạm vi hoạt động trong nước và quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị định 140/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/9/2007 quy định chi tiết
Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách
nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics;
2. TS. Chu Quang Thứ, Tìmhiểu về DN kinh doanh dịch vụ logistics tại Việt Nam;
3. Ngô Thị Như Nguyệt (2010), Phân tích thực trạng hoạt động logistics tại
Việt Nam;
4. Duy Anh, Tăng tốc phát triển ngành Logistics: Kinh nghiệm từ Singapore.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, đến
nay, Singapore đã có tới 7.000 công ty logistics
hoạt động với quy mô hơn 180.000 nhân viên
(chiếm9%tổng số laođộng toànquốc) vàđóng
góp 8% GDP và trở thành quốc gia hàng đầu
thế giới về chỉ số năng lực phát triển logistics.