42
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Sự tín nhiệm của chế độ tỷ giá neo có điều chỉnh
Khi tỷ lệ lạm phát của một quốc gia vượt quá
một ngưỡng nhất định, các cơ quan chức năng
quyết định giảm mức lạm phát xuống cho đến khi
lạm phát được kiểm soát và chính quyền cố gắng
duy trì mức lạm phát nằm trong một phạm vi mục
tiêu. Trong trường hợp đầu, uy tín của cơ quan quản
lý bị suy giảm do không thể ngăn chặn tình hình
xấu đi. Giai đoạn hai, cơ quan quản lý phải bắt đầu
chứng minh rằng họ có quyết tâm và khả năng thực
hiện các điều chỉnh cần thiết. Trong trường hợp
này, ngân hàng Trung ương sẽ đưa ra các biện pháp
kiểm soát lạm phát và vấn đề về uy tín chủ yếu liên
quan đến duy trì tỷ lệ lạm phát trong ngưỡng mục
tiêu công bố. Trên cở sở đó, sự tín nhiệm của chính
sách tỷ giá đánh giá trên hai nội dung cơ bản sau:
Sự tín nhiệm của tỷ giá cố định có điều chỉnh với sự
hội tụ của lạm phát
Sự hội tụ của lạm phát được định nghĩa là sự phụ
thuộc của lạm phát hiện tại vào lạm phát quá khứ.
Khi tồn tại sự phụ thuộc nhất định có nghĩa là các
chủ thể có thể dự báo được mức độ lạm phát trong
tương lai. Lạm phát càng cao, áp lực lên cơ quan
quản lý càng lớn và chính sách tỷ giá thực sự tín
nhiệm nếu có khả năng kéo lạm phát xuống (trong
chế độ tỷ giá có điều chỉnh). Ngược lại, sức mạnh
của chính sách tỷ giá càng yếu nhằm kéo lạm phát
xuống càng ít, sự tín nhiệm càng thấp. Sự hội tụ của
lạm phát thấp thể hiện sự tín nhiệm của chính sách
tỷ giá càng được cải thiện. Một số nghiên cứu đã xây
dựng lý thuyết và đánh giá thực nghiệm theo cơ sở
này như Edwards (1992), Guergana Stanoeva (2004).
Sự tín nhiệm của tỷ giá neo có điều chỉnh với lãi suất
Đánh giá sự tín nhiệm của chế độ tỷ giá neo có
điều chỉnh có thể dựa vào lý thuyết cân bằng lãi
suất, tức là dựa vào sự khác biệt giữa lãi suất của
một quốc gia và lãi suất của quốc gia có đồng tiền
neo. Với chế độ tỷ giá cố định, khác biệt này có thể
hội tụ với phần bù rủi ro (được tính bằng tỷ lệ khác
biệt giữa lãi suất trong nước với nước ngoài trong
thời hạn tương ứng).
Chế độ tỷ giá neo có điều chỉnh và mối liên hệ
với vốn đầu tư nước ngoài
Giả định rằng dòng vốn được tự do chu chuyển.
Nếu lãi suất trong nước của một kỳ hạn nào đó nằm
ngoài dải dao động, sự tín nhiệm của chính sách tỷ
giá trong trung và dài hạn bị đe dọa. Lãi suất trong
nước cao sẽ thu hút lượng vốn nước ngoài chảy vào
trong nước nhằm hưởng chênh lệch thu nhập giữa
nước đó với nước ngoài. Sự tăng vốn ồ ạt từ bên
ngoài vào trong nước (trước tiên vốn ngắn hạn), sẽ
tạo áp lực lên sự ổn định của tỷ giá. Để ngăn chặn
sự định giá cao tiền tệ, những nhà điều hành phải
thực thi các nghiệp vụ nhằm ngăn chặn sự luồng
vốn bên ngoài vào quá nhanh. Vốn càng chu chuyển
linh hoạt, nguy cơ tỷ giá càng mất ổn định và có
thể những nỗ lực ổn định phải kết thúc bằng việc
chuyển sang một chế độ tỷ giá khác linh hoạt hơn.
Nếu lãi suất nằm trong dải dao động, điều đó không
khẳng định rằng chính sách tỷ giá có sự tín nhiệm
cao, nhưng ngược lại, nếu lãi suất nằm ngoài dải
giao động chắc chắn rằng, chính sách tỷ giá không
còn được tín nhiệm như trước. Với những giá trị
đặc biệt của lãi suất như vậy, sự tín nhiệm của chính
sách tỷ giá được xem như là đang ở trạng thái xấu.
Nếu
e
t
là tỷ giá danh nghĩa được công bố tại
CHẾĐỘTỶGIÁNEOCÓĐIỀUCHỈNH
VÀ DÒNGVỐNNƯỚC NGOÀI VÀOVIỆT NAM
ThS. NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
- Đại học Công nghiệp Hà Nội
Chế độ tỷ giá neo có điều chỉnh đã được thực hiện ở rất nhiều quốc gia, đặc biệt là các nền
kinh tế đang phát triển. Bài viết dùng phương pháp đánh giá sự tín nhiệm của chế độ tỷ
giá neo có điều chỉnh tại Việt Nam và liên hệ với dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam,
từ đó đề xuất một số giải pháp hữu ích.