58
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
Xác định giá trị sau ghi nhận ban đầu của tài sản
Sau ghi nhận ban đầu, tài sản của đơn vị được
đánh giá theo giá hiện hành (current cost). Giá hiện
hành (còn được gọi là giá thay thế/ replacement
costs) là số tiền, các khoản tương tương tiền mà
đơn vị phải chi ra để mua sắm, để đầu tư hoặc sản
xuất các tài sản tương tự như những tài sản doanh
nghiệp hiện đang nắm giữ…
Ghi nhận biến động giá hiện hành
Giá hiện hành của tài sản/nợ phải trả được xác
định mỗi khi lập báo cáo kế toán nói chung và báo
cáo tài chính nói riêng. Biến động của giá hiện hành
được ghi nhận vào lợi nhuận kinh doanh như một
yếu tố được trình bày một cách riêng biệt trên báo
cáo tài chính
Đánh giá mô hình giá hiện hành
Kể từ khi Edward và Bell công bố quan điểm của
mình về giá hiện hành trong tác phấm kinh điển “Lý
thuyết và đo lường kết quả kinh doanh” năm 1961
nhiều học giả đưa ra các nghiên cứu tranh luận về
mô hình giá hiện hành.
Các quan điểm ủng hộ giá hiện hành:
(i) Do các tiến bộ khoa học công nghệ nên các tài
sản chủ yếu của doanh nghiệp phải được thay thế
một cách định kỳ. Việc phản ánh tài sản theo giá
hiện hành một mặt cho phép ghi nhận vào chi phí
của doanh nghiệp mức khấu hao, đảm bảo có thể
tái đầu tư và duy trì năng lực sản xuất kinh doanh
ổn định của doanh nghiệp, mặt khác, khi so sánh
doanh thu với chi phí tính theo giá hiện hành thì chỉ
tiêu lợi nhuận phản ánh hiệu quả kinh doanh thực
sự của doanh nghiệp không chỉ trong ngắn hạn mà
còn trong dài hạn.
(ii) Cơ sở logic cho việc ghi nhận các khoản biến
động giá hiện hành vào lợi nhuận kinh doanh trong
kỳ là xuất phát từ quan điểm cho rằng, khi giá hiện
hành tăng, tức là chi phí thay thế tài sản tăng, việc
doanh nghiệp đã đầu tư và nắm giữ tài sản tạo cho
doanh nghiệp một khoản tiết kiệm chi phí mang
tính cơ hội, bản chất của khoản tiết kiệm chi phí
cũng là các khoản thu nhập cơ hội. Khi có đủ bằng
chứng khách quan về biến động giá hiện hành, thì
các khoản này cần được ghi nhận vào kết quả kinh
doanh trong kỳ.
(iii) Trong điều kiện có thị trường hoạt động cho
tài sản, việc xác định giá hiện hành của hầu hết các
tài sản là khách quan và đáng tin cậy. Cho dù giá
hiện hành không đạt được tính khách quan và tin
cậy như giá gốc, song với quan điểm cho rằng thông
tin kế toán không hướng tới một sự tin cậy tuyệt đối
hành được xác định bằng chênh lệch giữa giá hiện
hành của hàng hóa, dịch vụ đầu ra trừ đi giá hiện
hành của các yếu tố đầu vào tương ứng. Còn đối với
các khoản tiết kiệm chi phí đã thực hiện là các khoản
gia tăng giá hiện hành của tài sản khi doanh nghiệp
nắm giữ các tài sản này trong kỳ hiện tại.
- Giả định đơn vị hoạt động liên tục.
Mô hình giá
hiện hành được đề xuất áp dụng thay thế cho mô
hình giá gốc. Tuy nhiên, mô hình này vẫn dựa trên
cơ sở giả định đơn vị hoạt động liên tục. Theo cách
tiếp cận của mô hình giá hiện hành, cho dù doanh
nghiệp hoạt động một cách liên tục trong tương lai
không xác định nhưng các tài sản cụ thể của doanh
nghiệp thì luôn có vòng đời hữu hạn, vì vậy các tài
sản này cần phải được đầu tư thay thế. Khi đó, giá
hiện hành để đầu tư, mua sắm tài sản là mức giá tốt
nhất để đo lường và trình bày các tài sản này. Biến
động giá hiện hành một mặt làm biến động mức
khấu hao để đơn vị thu hồi vốn nhằm tái đầu tư vào
tài sản. Mặt khác, biến động đó phản ánh chi phí cơ
hội mà đơn vị đã tiết kiệm được do đã đầu tư vào tài
sản trong quá khứ. Xét theo góc độ này, biến động
giá hiện hành của tài sản có thể được ghi nhận là
một yếu tố của thu nhập trong kỳ.
- Quan điểm bảo toàn vốn hiện vật.
Việc đánh giá tài
sản theo mô hình giá hiện hành dựa trên quan điểm
bảo toàn vốn hiện vật. Theo đó, lợi nhuận được xác
định trên cơ sở số vốn thực chất, tức là năng lực
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được bảo
toàn. Quan điểm này dẫn đến doanh nghiệp phải
phản ánh các tài sản theo mức giá mua thay thế hiện
hành, các chi phí được ghi nhận để trừ vào doanh
thu trong kỳ cũng được xác định trên cơ sở chi phí
thay thế của các nguồn lực đã được sử dụng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Quan điểm bảo
toàn vốn hiện vật khác với quan điểm bảo toàn vốn
tài chính (điều chỉnh giá trị của các yếu tố báo cáo
tài chính theo mức giá chung) ở chỗ, từng loại tài
sản phải được xem xét lại giá trị của nó theo mức giá
hiện hành tại mỗi thời điểm lập báo cáo.
Nội dung của mô hình giá hiện hành
Mô hình giá hiện hành chủ yếu đề cập đến việc
điều chỉnh và ghi nhận biến động giá hiện hành của
tài sản. Giá hiện hành của các khoản nợ phải trả
thường ít được đề cập.
Xác định giá trị ban đầu của tài sản
Theo mô hình giá hiện hành, các tài sản được
ghi nhận ban đầu theo giá gốc. Nguyên tắc xác định
giá gốc của từng loại tài sản trong từng trường hợp
hình thành tài sản tương tự như mô hình giá gốc.