TÀI CHÍNH -
Tháng 7/2016
61
Để chính sách này phát huy những tác động tích
cực trong công cuộc chống đô la hóa và hoạt động của
hệ thống NHTM ổn định, phát triển lành mạnh, theo
tác giả, Nhà nước cần đưa ra các chính sách đồng bộ
gồm tạo thị trường mua bán USD hiệu qua thông qua
cơ chế khơi thông, tự do hóa, bổ sung hàng hóa cho
thị trường ngoại hối, thị trường trái phiếu ngoại tệ
phát triển; tạo các chính sách khuyến khích phát triển
nền kinh tế giá trị gia tăng để thu hút ngoại tệ qua
xuất khẩu hàng hóa, thành phẩm thay dần nguồn thu
từ bán nguyên liệu thô; hoàn thiện các chính sách bảo
vệ giá trị sức mua đồng nội tệ thông qua các nghiệp
vụ của ngân hàng trung ương phải ngày càng độc lập
với chính phủ theo thông lệ quốc tế. Ngoài ra, phải
có các cơ chế mới tạo điều kiện cho các NHTM huy
động USD đảm bảo nhu cầu cho vay và thanh khoản.
Hiện nay, trong lưu thông tồn tại một lượng lớn USD
trên tài khoản tiền gửi ngoại tệ ở các NHTM và người
dân có quyền rút ra bằng ngoại tệ mà không bị pháp
luật cấm. Đồng USD được coi là một phương tiện cất
trữ, thanh toán giữa người dân với nhau. Luật không
cấm người dân quyền sở hữu và sử dụng USD, nên
nếu dân có nhu cầu thanh toán cho nhau bằng đồng
USD vẫn được chấp nhận. USD sẽ tiếp tục còn đổ
vào Việt Nam thông qua kiều hối, du lịch, tiền công
của người lao động ở nước ngoài gửi về. Với một
nền kinh tế đang rất cần vốn thì đây là một lượng
tiền cần phải được huy động. Do vậy, NHNN có thể
dùng cách khác để ngăn chặn tình trạng đô la hóa mà
vẫn huy động được vốn ngoại tệ, đó là cho gửi USD
có lãi nhưng khi rút ra thì chỉ được rút VND theo tỷ
giá được các NHTM niêm yết tại thời điểm khách
rút tiền.
Chống đô la hóa là mục tiêu lớn của chính sách
trần lãi suất USD 0%/năm. Đó là mục tiêu bảo vệ
giá trị đồng nội tệ, là lợi ích quốc gia phải lớn hơn
mọi mục tiêu cục bộ của một nhóm hay của một
vài ngành. Vấn đề đặt ra là phải tìm các chính sách
đồng bộ trong toàn nền kinh tế và nhất là trong
các ngành tài chính ngân hàng để khơi thông các
dòng ngoại tệ trong và ngoài nước. Còn đối với
các NHTM, cần khuyến khích sự năng động trong
việc tìm ra các hàng hóa hay cơ chế tạo ngoại tệ mà
chính sách không cấm.
Tài liệu tham khảo:
1. Anne-Marie Gulde, David Hoelscher,Alain Ize, David Marston, and
Gianni De Nicoló. (2006). Financial Stability in Dollarized Economies.
OCCASIONAL PAPER, IMF;
2. Phạm Tiên Phong, Thành công trong vi c kiểm soát đô la hóa – Kinh
nghi m của Ngân hàng Nhà nước, Tạp chí Ngân hàng số 7/2016;
3.
khác có cơ hội phát triển như đầu tư chứng khoán,
bất động sản hay vàng, dù rằng mức dịch chuyển đó
không lớn và không bền vững.
Trước hết phải khẳng định rằng, chính sách trần
lãi suất USD 0%/năm không phải là chính sách chối
bỏ nguồn lực ngoại tệ trong nền kinh tế, mà là sự
chối bỏ một cơ chế từ nhiều năm nay đã làm méo
mó thị trường tài chính. Không một nền kinh tế thị
trường nào cho phép duy trì đồng thời đồng nội tệ
và đồng ngoại tệ tham gia vào cả thị trường hàng
hóa, dịch vụ lẫn thị trường tín dụng.
Hiện nay, các dòng ngoại tệ vào Việt Nam chủ
yếu đến từ các nguồn: Xuất khẩu hàng hóa, dịch
vụ, sức lao động ra nước ngoài, các nguồn đầu tư
trực tiếp, gián tiếp của nước ngoài, kiều hối và vay
nước ngoài. Các dòng ngoại tệ chảy ngược ra khỏi
lãnh thổ gồm: Thanh toán nhập khẩu hàng hóa,
dịch vụ, trả nợ tín dụng/trái phiếu, chi cho học tập,
công tác du lịch nước ngoài, các nguồn thu nhập,
lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam chuyển về nước. Tổng thể hai dòng ngoại tệ
vào và ra trên không phải lúc nào cũng cân bằng,
ngay khi cả thặng dư tổng thể vẫn có thể thiếu
thanh khoản cụ thể.
Chính vì vậy, các NHTM và Chính phủ một mặt
vẫn phải có tài khoản tiền gửi ở nước ngoài, mặt
khác vẫn phải vay nước ngoài khi giá cao hơn trong
nước. Ngoài ra, việc NHNN công bố chính sách
trần lãi suất USD 0%/năm là chính sách chống đô la
hóa tích cực và không liên quan đến việc trùng hay
không trùng với điểm FED công bố tăng lãi suất lên
0,25%/năm. Chính sách này về bản chất không chối
bỏ một nguồn lực ngoại tệ trong nước mà là thay
cơ chế tín dụng ngoại tệ bằng cơ chế mua bán trên
thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, việc áp dụng lãi
suất USD 0%/năm đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động
của các NHTM, đặc biệt là nguồn cung USD cho hệ
thống ngân hàng bị hạn chế. Lãi suất thấp có thể
dẫn tới nhu cầu bán USD lấy VND, cung USD trên
thị trường tăng nhưng trong NHTM lại khan hiếm.
Khi lãi suất huy động hạ kéo theo lãi suất cho vay
giảm nên doanh nghiệp muốn đi vay USD. Nếu xu
thế này diễn ra, hệ quả là đến hạn trả nợ vay USD,
cầu ngoại tệ sẽ tăng lên và làm tỷ giá biến động,
ảnh hưởng đến vay nợ nước ngoài bằng USD. Bên
cạnh đó, rủi ro thanh khoản cũng là áp lực của các
NHTM, bởi thay vì gửi tiết kiệm USD với kỳ hạn dài
(6 tháng, 1 năm hoặc dài hơn) như trước đây, hiện
nay, người dân chỉ gửi USD không kỳ hạn. Tình
trạng này khiến các NHTM bị động về nguồn vốn
ngoại tệ cho vay và đứng trước rủi ro thanh khoản
ngoại tệ.