TÀI CHÍNH -
Tháng 7/2016
59
- Ở Mỹ, nghiên cứu của Ro (1981) cho thấy việc
công bố thông tin bổ sung theo giá hiện hành của
các công ty theo quy định của FAS 33 và ASR 190
của Ủy ban chứng khoán không ảnh hưởng đến giá
cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Điều này,
chứng tỏ các thông tin này không ảnh hưởng đến
quyết định của các nhà đầu tư.
- Nghiên cứu của Keith Stanga (1981) về phản
ứng của các nhà cho vay thương mại đối với dữ liệu
về giá hiện hành trong mối quan hệ so sánh với số
liệu trên cơ sở giá gốc cho kết quả: cơ sở giá gốc
được đánh giá là đáng tin cậy hơn.
- Một nghiên cứu tổng quan của Louis Harris và
các cộng sự tiến hành phỏng vấn các giảm đốc và
chuyên gia tài chính của các tập đoàn lớn, các công
ty chứng khoán và công ty kiểm toán cho kết quả:
61% số người được hỏi tin rằng, giá hiện hành rất
khó có thể thay thế cho giá gốc ngay cả trong điều
kiện có lạm phát...
Về góc độ nghiên cứu, vấn đề tìm ra một mô
hình tính giá khác thay thế cho mô hình giá gốc luôn
là hướng nghiên cứu chủ đạo của các học giả trong
suốt thế kỷ 20. Từ những năm 1930, Sweeny đã
nghiên cứu để xuất về việc sử dụng giá đầu vào/giá
thay thế trong kế toán thay thế cho giá gốc. Quan
điểm của Macneal được phát triển thành lý thuyết
hoàn chỉnh về mô hình giá thay thế bởi Adward và
Bell trong những năm 1960.
Mô hình giá đầu ra càng được ủng hộ và chứng
minh tính khả thi vào thập kỷ 1970, thập kỷ của lạm
phát. Trên thực tế, mô hình này cũng được các tổ
chức lập quy kế toán khuyến cáo áp dụng trong thời
kỳ này với tư cách là các thông tin tài chính bổ sung.
Bước sang thập kỷ 1990, khi tình hình lạm phát ở các
nước phát triển đã dịu bớt và tình hình kinh tế có
những chuyển biến, đặc biệt là sự phát triển của thị
trường chứng khoán, mô hình giá hiện hành ít được
đề cập. Các tranh luận về kế toán hướng sang mô
hình giá đầu ra với trọng tâm là việc sử dụng giá trị
hợp lý trong kế toán.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tài chính (2005), H thống chuẩn mực kế toán Vi t Nam, NXB Tài chính;
2. Y. Ijiri (1967), The foundation of Acconting Measurement, NXB Prentice Hall;
3. Robert Mautz (1973), A few words for historical cost;
4. Sterling Robert (1971.), Asset valuation and Income determination;
5. W.Paton (1922), Accounting theories, With special reference to the corpo-
rate enterprirse, Ronald Press Co;
6. Jammes McKeown (1973), Comparative application of market and cost
based accounting models, Journal of Accounting research, Spring;
7. Nobes et al (2012), Comparative International Accounting, Prentice Hall;
8. Veron Kam (1990), Accounting theories, Wiley & Son.
thì việc sử dụng giá hiện hành trong kế toán hoàn
toàn phù hợp.
(iv) Bên cạnh các lập luận mang tính chuẩn tắc
ủng hộ việc sử dụng giá hiện hành trong kế toán,
một số nghiên cứu thực nghiệm trong thập niên
1970 và 1980 cũng đưa ra các kết luận ủng hộ giá
hiện hành: Nhà nghiên cứu Louis, trong nghiên cứu
thực nghiệm năm 1980 thông qua khảo sát các nhà
quản lý cho thấy 61% các nhà quản lý cho rằng, giá
hiện hành sẽ dần dẫn trở nên quan trọng hơn giá
gốc nếu lạm phát còn tiếp diễn; Trong các nghiên
cứu thực nghiệm của mình, Friedman, Buchman và
Melicer nhận thấy có sự phản ứng của thị trường
đối với thông tin theo giá hiện hành.
Các quan điểm phản biện giá hiện hành:
Các quan điểm phản biện giá hiện hành chủ yếu
đến từ các học giả ủng hộ áp dụng giá gốc và giá
đầu ra trong kế toán:
(i) Phần lớn các tài sản của doanh nghiệp, đặc
biệt là các tài sản dài hạn được nắm giữ để sử dụng
cho hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không phải
để bán, nên việc sử dụng một cơ sở tính giá khác
không phải là giá gốc sẽ không phù hợp, không
cung cấp thêm thông tin thích hợp đối với các chủ
thể có lợi ích liên quan. Một lý do quan trọng khác
là, giá hiện hành được xác định cho các tài sản đang
được sử dụng, thị trường hoạt động cho các tài sản
này hiếm khi tồn tại trên thực tế. Vì vậy, việc xác
định giá hiện hành cho các tài sản của doanh nghiệp
khó đảm bảo tính khách quan và tin cậy cần có để
được công bố trên báo cáo tài chính...
(ii) Một khía cạnh quan trọng của mô hình giá
hiện hành là đề xuất ghi nhận biến động giá hiện
hành vào lợi nhuận kinh doanh. Các học giả ủng hộ
nguyên tắc thực hiện theo mô hình giá gốc kịch liệt
phản bác quan điểm này. Họ cho rằng, biến động
tăng giá hiện hành không chứng minh lợi ích kinh tế
tăng thêm từ việc sử dụng tài sản trong tương lai. Vì
vậy, việc ghi tăng lợi nhuận thực chất chỉ có trong
tưởng tượng của doanh nghiệp.
(iii) Phản biện lập luận về sự tiến bộ kỹ thuật của
Edward và Bell, các học giả như Thomas và Lemke
cho rằng, các tiến bộ khoa học công nghệ sẽ tạo ra
các tài sản thay thế các tài sản hiện tại, vì vậy giá
hiện hành của các tài sản hiện tại và lợi nhuận tính
trên cơ sở giá hiện hành không có khả năng dự báo
về lợi nhuận trong tương lai.
(iv) Các nghiên cứu thực nghiệm phản biện mô
hình giá hiện hành.
Một số nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành
trong những năm 1980 cũng cho kết quả nghiên cứu
không ủng hộ việc sử dụng giá hiện hành: