44
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
hiện đại theo xu thế của thế giới. Việc triển khai
thực hiện tái cơ cấu DNNN chưa xác định được cụ
thể điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của
từng DN, qua đó có giải pháp tái cơ cấu, phát triển
DN mà chủ yếu đang thực hiện theo hình thức
chuyển giao, sắp xếp, tổ chức lại trong nội bộ tập
đoàn, tổng công ty hoặc giữa các DNNN.
Một số bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh
tế, tổng công ty nhà nước chưa chỉ đạo quyết liệt
và tích cực tổ chức triển khai Đề án tái cơ cấu cũng
như phương án sắp xếp, CPH và thoái vốn. Chưa
kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý các khó
khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nên
cũng dẫn đến chậm tiến độ. Công tác sắp xếp lao
động trong quá trình tái cơ cấu DN còn nhiều
vướng mắc.
Các hình thức sắp xếp khác như: giao, bán,
chuyển đổi thành công ty TNHH; tổ chức lại, giải
thể DN vẫn chưa phát huy được hiệu quả. Việc
chuyển đổi các công ty nhà nước sang hoạt động
theo hình thức công ty TNHH nhà nước một thành
viên chưa có sự đổi mới về cơ chế quản lý, chưa
nâng cao được sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt
động sau chuyển đổi…
Quan điểm và giải pháp trong giai đoạn mới
Quan đi m t i cơ cấu
Đảng, Nhà nước ta đã xác định rõ vai trò cũng
như quan điểm đổi mới nâng cao hiệu quả quản lý
và hoạt động của DNNN là:
- DNNN là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà
nước, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ
hỗ trợ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, ổn định
kinh tế vĩ mô, góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tổ chức và hoạt động của DNNN phải
tuân theo những quy luật khách quan của kinh tế
thị trường có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước
và chịu sự chi phối, giám sát toàn diện của chủ sở
hữu là Nhà nước;
- DNNN phải tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng
cao hiệu quả để có cơ cấu hợp lý, tập trung vào
những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan
trọng phù hợp với thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế;
phù hợp chiến lược phát triển công nghiệp; có khả
năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Những
DNNN có lợi thế do Nhà nước giao, có ưu thế độc
quyền tự nhiên phải được quản lý theo cơ chế phù
hợp để đảm bảo điều kiện kinh doanh công bằng
với các DN trong các khu vực kinh tế khác; Tạo ra
tính cạnh tranh với DN nước ngoài (hình thành các
điều chỉnh, bổ sung theo hướng tạo thuận lợi cho
các DN thực hiện. Trên cơ sở các đề án đã được phê
duyệt, các tập đoàn, tổng công ty đã tiến hành rà
soát, phân loại, xác định danh mục, ngành nghề,
phạm vi kinh doanh chính, ngành nghề có liên
quan và xây dựng kế hoạch CPH; một số tập đoàn
và tổng công ty đã xây dựng, ban hành mới hoặc
hoàn thiện hệ thống quy chế quản trị nội bộ, sắp
xếp lại cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý, điều hành
nhằm tinh giảm biên chế, nâng cao khả năng cạnh
tranh của DN.
Một số vấn đề tồn tại
Kết quả trên dù đã đem lại nhiều tác động tích
cực đến nền kinh tế Việt Nam song theo đánh giá là
vẫn chưa được như kỳ vọng. Một số bộ, ngành, địa
phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước
chưa chỉ đạo quyết liệt và tích cực tổ chức triển
khai phương án sắp xếp, CPH và thoái vốn.
Đặc biệt, nhận thức của một bộ phận cán bộ ở
các cấp, các ngành và các DN về chủ trương tái cơ
cấu DN, tuy đã có chuyển biến nhưng chưa hiểu
đúng ý nghĩa quan trọng của việc tái cơ cấu DN
đối với sự phát triển kinh tế – xã hội; còn tư tưởng
e ngại, lo lắng về vị trí và vai trò lãnh đạo sau CPH.
Ngay cả đối với những đối tượng được sắp xếp,
CPH, hầu hết là các DN có quy mô lớn, phạm vi
hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành nghề, tài
chính phức tạp nên cần có nhiều thời gian chuẩn
bị, xử lý.
Việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành tại hầu hết
các tập đoàn, tổng công ty nhà nước còn chậm, đặc
biệt là việc thoái vốn của các DN phải thực hiện
theo nguyên tắc bảo toàn vốn. Tổng số tiền thu về
từ thoái vốn còn thấp so với tổng số vốn đã đầu tư
do phần lớn các khoản đầu tư ngoài ngành có hiệu
quả thấp, một số thua lỗ nên khó thu hút các nhà
đầu tư. Thêm vào đó, trong quá trình thoái vốn,
các DN còn gặp nhiều khó khăn về cơ chế đánh giá
tài sản là giá trị quyền sử dụng đất, thương hiệu,
tài sản trí tuệ, việc đối chiếu và xử lý nợ tồn đọng,
tìm kiếm đối tác chiến lược, xử lý lao động dôi dư...
Các DN sau khi sắp xếp lại, CPH, chuyển đổi
sang công ty TNHH một thành viên chưa có sự đổi
mới thực chất về quản trị kinh doanh và năng lực
cạnh tranh còn yếu. Năng lực cạnh tranh của các
DN còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực nắm
giữ, trình độ công nghệ, năng suất lao động của
nhiều DN còn thấp.
Tiến độ thực hiện tái cơ cấu các DNNN còn
chậm so với yêu cầu, đặc biệt trong việc phân bổ
lại nguồn lực hiện có và phương thức quản trị DN