64
KINH TẾ - TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
này có thể đẩy mạnh xu hướng giữ tiền mặt tại nhà
của người Nhật thay vì đầu tư hay gửi tiết kiệm
trong ngân hàng.
Mặt khác chi tiêu cá nhân rơi vào tình trạng đặc
biệt yếu ớt mặc dù nền kinh tế thứ ba thế giới phụ
thuộc nhiều vào tiêu dùng nội địa. Cụ thể như trong
quý IV/2015, tiêu dùng tư nhân, vốn chiếm tới 60%
GDP Nhật Bản, đã giảm 0,8%. Nguyên nhân là do
dân số già đi và giảm bớt, giá cả hàng hóa tăng lên
do đồng Yên mất giá, thuế tiêu dùng tăng từ 5% -
8%, trong khi mức lương danh nghĩa giữ nguyên
làm mức lương thực tế giảm…
Thứ hai,
hạn chế của chính sách tài khóa nới lỏng.
Chiến lược Abenomics hướng tới nới lỏng chính
sách tài khóa cụ thể là thúc đẩy chi tiêu công để hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế. Thực chất chiến lược này
không mới vì Nhật Bản vốn nổi tiếng với những gói
cứu trợ khổng lồ trong vòng hai thập kỷ vừa qua
trong những nỗ lực đưa nền kinh tế nước này ra
khỏi tình trạng giảm phát. Trong năm 2013, chi tiêu
vượt mức của Chính phủ được tài trợ bởi ngân sách
bổ sung đã kích thích sự phát triển kinh tế chậm
chạp. Với chính sách tài khóa nới lỏng năm 2014
đã dẫn tới thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN)
ở mức 7,1% do thu thuế giảm và nền kinh tế tăng
trưởng chậm.
Hiện nay, tổng nợ công của Nhật Bản đã tăng lên
mức 230% GDP, gần tương đương với tài sản thực
của toàn bộ hộ gia đình của đất nước và tính theo
mức thuế hiện nay thì bằng tổng số thu từ thuế của
8 năm. Cho tới nay, 90% mức nợ công của Nhật Bản
vẫn bằng đồng Yên. Điều này buộc Chính phủ Nhât
Bản trong thời gian tới sẽ có các chính sách thu hút
vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài cấp vốn
cho các khoản chi tiêu của mình.
Những tác động tích cực tới nền kinh tế do
chính sách tài khóa mở rộng lại bị ảnh hưởng phần
nào do những cải cách về thuế. Theo kế hoạch thì
lộ trình tăng thuế tiêu dùng gồm hai giai đoạn,
Những vấn đề tồn tại của chiến lược Abenomics
Câu hỏi đặt ra là liệu chính sách Abenomics có
phải là liệu thuốc cho căn bệnh suy thoái của Nhật
Bản hay không? Hay nói cách khác chính sách
Abenomics có thực sự đạt được các mục tiêu đề ra
hay không? Câu trả lời có thể thấy rõ hơn khi phân
tích những khía cạnh sau đây:
Thứnhất,
tínhhiệuquả của chính sách tiền tệmở rộng.
Trong Chiến lược Abenomics, BOJ đã kiên trì
thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng trên quy mô
lớn cả về số lượng và chất lượng. Cụ thể, BOJ đã
tăng gấp đôi lượng tiền cơ sở từ 138 nghìn tỷ Yên
(cuối năm 2012) lên 270 nghìn tỷ Yên (cuối năm
2014) với mục tiêu làm tăng gấp đôi phần đóng
góp của tiền cơ sở vào GDP để đạt tới mức gần
60% là tỷ lệ cao nhất từ trước tới nay. Việc mở
rộng khối lượng tiền tệ được thực hiện thông qua
mua trái phiếu chính phủ có kỳ hạn dài đến 8
năm. Mục đích chính của BOJ là can thiệp lãi suất
trên thị trường vốn trong dài hạn để tác động tích
cực lên thị trường tài sản thực. Qua đó BOJ có thể
tăng tổng cầu của nền kinh tế nhờ mức tiền lương
cao hơn, có nhiều đầu tư hơn và lượng hàng hóa
tiêu dùng sẽ tăng mạnh hơn ở cuối chuỗi hiệu
ứng, phá vỡ tình trạng giảm phát hiện nay của
nền kinh tế Nhật Bản.
Nền kinh tế Nhật Bản có dấu hiệu giảm phát vào
cuối năm 2014 đã buộc BOJ phải mở rộng phần đóng
góp của tiền cơ sở trong GDP từ 70% - 75% tới cuối
năm 2015. BOJ tiếp tục tăng khối lượng mua trái
phiếu chính phủ có kỳ hạn dài từ 50 nghìn lên 80
nghìn tỷ Yên cũng như triển khai các biện pháp hỗ
trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thị trường chứng khoán
và bất động sản. Bước sang năm 2016, BOJ đã quyết
định áp dụng chính sách lãi suất âm chưa từng có
trong tiền lệ đối với các ngân hàng thương mại gửi
tiền dự trữ tại BOJ với mục đích khuyến khích ngân
hàng cho vay, từ đó thúc đẩy tỷ lệ tăng trưởng của
nền kinh tế.
Nguyên nhân của tình trạng này là do cơ chế
truyền dẫn chậm của chính sách tiền tệ và đặc thù
của nền kinh tế Nhật Bản. Các doanh nghiệp (DN)
Nhật Bản chủ yếu dựa vào tín dụng ngân hàng, mà
tỷ lệ cho vay tín dụng tại Nhật Bản hầu như không
tăng lên bất chấp nhiều ngân hàng thương mại đã
hạ lãi suất thế chấp và lãi suất cho vay đối với DN,
đặc biệt sau khi BOJ áp dụng chính sách lãi suất âm
đầu năm 2016. Mặc dù chính sách lãi suất âm không
đồng nghĩa với việc người dân gửi tiết kiệm sẽ phải
trả phí, tuy nhiên lãi suất đối với một số khoản tiền
gửi đã giảm xuống mức thấp kỷ lục 0,001%. Điều
TỐCĐỘTĂNGTRƯỞNGGDPCỦANHẬTBẢNTỪ2013-THÁNG1/2016(%)
Nguồn: Tradingeconomics.com