68
KINH TẾ - TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Việt Nam vẫn chủ yếu là các đồng tiền chủ chốt.
Yên Nhật chiếm tỷ trọng lớn nhất 38,83%; tiếp đến
là Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) chiếm 27,06%;
USD, Euro lần lượt chiếm 22,16% và 9,18%. Với
việc SDR sẽ có thay đổi cơ cấu giỏ tiền tệ sau năm
2017 và biến động về chế độ tỷ giá của các nước
thì việc trả nợ ngắn hạn của Việt Nam sẽ chịu
nhiều ảnh hưởng. Ngoại trừ xu hướng tăng giá
của đồng USD thì các đồng tiền lớn khác đều có
xu hướng giảm giá trị so với USD, nên nếu có biện
pháp hợp lý thì gánh nặng nợ sẽ được hỗ trợ phần
nào qua chính sách tỷ giá linh hoạt.
Chính sách tỷ giá của Việt Nam trong ngắn hạn
là việc giữ cho giá trị đồng VND ổn định so với giá
trị đồng tiền của các quốc gia khác để hoạt động
xuất khẩu được thuận lợi và không tạo áp lực cho
các khoản nợ nước ngoài. Phân tích về triển vọng
tỷ giá ở các quốc gia trong năm 2016 cho thấy nhiều
nước sẽ thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng. Cùng
với việc chuyển đổi sang cơ chế tỷ giá trung tâm,
VND cũng sẽ có xu hướng mất giá so với đồng
USD. Các chuyên gia dự báo, với những đánh giá
khả quan về tăng trưởng kinh tế, tỷ giá trung tâm
của Việt Nam năm 2016 được dự báo chỉ mất giá
nhẹ với mức độ từ 2-3%.
Tài liệu tham khảo:
1. James Rickards, 2011,Currency Wars: The Making of the Next Global
Crisis. Penguin Press;
2. Jeff Maruda,2012, International Corporate Finance 10th edition. Cengage
Learning;
3. Ngân hàng Liên Việt, 2016, “Tỷ giá trung tâm của NHNN - Bước tiến mới
trong điều hành tỷ giá”
-
trung-tam-cua-nhnn-buoc-tien-moi-trong-dieu-hanh-ty-gia;
4. Bloombergview, 2016 “The Fed’s Best Policy: Wait and See”
bloombergview.com/articles/2016-01-27/the-fed-s-best-policy-wait-
and-see;
5. Finnacial Time, 2016, “When interest rate rise”:
when-rates-rise/#what-is-happening.
Việt Nam xuất
siêu vào Mỹ còn
ba thị trường
còn lại nước
ta nhập siêu,
trong đó lớn
nhất là Trung
Quốc khoảng 33
tỷ USD và Hàn
Quốc khoảng 18
tỷ USD.
Do vậy, chỉ
với thay đổi
nhỏ về tỷ giá cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến cán cân
thương mại của Việt Nam. Các mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu của Việt Nam là hàng dệt may, nông
sản, thiết bị linh kiện điện tử, điện thoại, máy
tính, nhưng ngược lại nước ta nhập khẩu nhiều
đầu vào cho sản xuất, đó là linh kiện bán dẫn,
thiết bị máy móc, vải. Trong bối cảnh Việt Nam
đang cố gắng để có vai trò lớn hơn trong chuỗi giá
trị gia tăng của sản phẩm, trở thành các nhà cung
cấp đầu vào cho quá trình sản xuất thì việc được
hỗ trợ bởi chính sách tỷ giá nhằm hạn chế nhập
khẩu cùng loại là cần thiết. Các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của nước ta hiện nay gồm có nông
sản, hàng dệt may, da giày, các thiết bị sản phẩm
điện tử gia công.
Đối với mặt hàng như nông sản thì tính thay thế
trong sản phẩm của các quốc gia là khá cao, tức có
nhiều nhà cung cấp và giá các mặt hàng này tương
đối ít co giãn do nhu cầu về các mặt hàng này ổn
định và số lượng nhà cung cấp ổn định, một sự
thay đổi nhỏ về giá khó làm tăng tính cạnh tranh
cho sản phẩm từ một quốc gia.
Đối với các mặt hàng điện tử, đứng trước tình
trạng khó khăn của nhiều nền kinh tế thế giới, nhu
cầu các mặt hàng điện tử tăng không mạnh, với
mức tăng trưởng nhu cầu các sản phẩm này trên
thế giới khoảng 2-4%, nên vấn đề tăng tính cạnh
tranh từ việc giảm giá đồng Việt Nam cũng không
quá hiệu quả.
Thứ hai,
nợ nước ngoài
Theo báo cáo của Thủ tướng, năm 2015, nợ nước
ngoài của Việt Nam đã vượt quá 40% GDP, tỷ lệ
này khá ổn định trong khoảng thời gian từ 2010
đến nay. Phần lớn nợ nước ngoài vẫn là nợ dài
hạn, khoảng hơn 15% là nợ ngắn hạn. Theo thống
kê của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) thì các
chủ nợ lớn nhất của Việt Nam là Nhật Bản (34,5%
tổng nợ), Ngân hàng Thế giới (WB) là 28,8%, ADB
15,25% và Đức (9,8%)... Cơ cấu đồng tiền nợ của
HÌNH 2: TỶ GIÁ ĐỒNG USD SO VỚI EURO VÀ YÊN NHẬT TỪ THÁNG 3/2015- 2/2016
Nguồn: Ngân hàng Scotiabank