Tạp chí Tài chính kỳ 1 số tháng 4-2016 - page 63

TÀI CHÍNH -
Tháng 4/2016
65
tiên phát triển mang tính lâu dài nhưng không có
những biện pháp cụ thể. Ví dụ như trong vòng 10
năm tới cố gắng tăng thu nhập bình quân đầu người
lên thêm 1.500.000 Yên (tương đương 15.000 USD),
nhưng không đưa ra kế hoạch công việc cụ thể cần
phải làm như thế nào để đạt được mục tiêu đề ra.
Một số hàm ý cho Việt Nam
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng
kinh tế của Nhật Bản năm 2016 sẽ đạt mức tăng 1%.
Có thể nói, Chiến lược Kinh tế Abenomics đã đem
lại những kết quả khả quan bước đầu. Tuy nhiên,
những mục tiêu chưa đạt được cho thấy Chính phủ
Nhật Bản cần nỗ lực hơn nữa trong việc tìm lời giải
cho bài toán tăng trưởng kinh tế bền vững. Vì vậy,
việc nhìn nhận lại kết quả thực thi Chiến lược kinh
tế Abenomics có thể rút ra một số kinh nghiệm
chính sách cho Việt Nam cụ thể như sau:
Thứ nhất,
về điều hành các chính sách vĩ mô như
chính sách tiền tệ cần phải chú ý độ tr về thời gian.
Khi đưa ra các điều chỉnh chính sách, cần phải lưu
ý dành thời gian để cho nền kinh tế có thể hấp thụ
được và phát huy được tối đa những tác động tích
cực của chính sách.
Thứ hai,
trong chiến lược phát triển cần đặc biệt
lưu ý tới phát triển hệ thống an sinh xã hội. Hiện
nay cơ cấu dân số của chúng ta vẫn là cơ cấu vàng
vì vậy hệ thống an sinh xã hội vẫn chưa tạo thành
gánh nặng cho NSNN. Tuy nhiên, tình huống này
sẽ thay đổi vài thập kỷ tới vì vậy chúng ta cần có
những biện pháp dài hạn để đảm bảo đáp ứng tốt
nhu cầu an sinh của người dân cũng như giảm bớt
gánh nặng cho NSNN.
Thứ ba,
mặc dù nợ công hiện vẫn chưa là vấn đề
lớn nhưng rõ ràng là quả “bom” tiềm ẩn đối với nền
kinh tế Nhật Bản. Đối với Việt Nam quá trình phát
triển kinh tế đòi hỏi chúng ta cần phải vay mượn
làm gia tăng tỷ lệ nợ công. Mặc dù tỷ lệ nợ công hiện
nay vẫn nằm ở ngưỡng cho phép, nhưng chúng ta
cần phải sử dụng nguồn tiền vay một cách hợp lý
thông qua những chiến lược đầu tư trọng điểm,
hiệu quả nhằm giảm bớt lãng phí và thất thoát.
Tài liệu tham khảo:
1. Alan J. Auerbach & Y. Gorodnichenko, 2014, Fiscal Multipliers in Japan,
NBER Working Paper No. 19911;
2. De Mooji, R. & I. Saito, 2014, Japan’s Corporate Income Tax: Facts, Issues and
Reform Options, IMF Working Paper No. 14/138;
3. Kazuyuki Sugimoto & J. Ueda, 2013, Challenges for Japan’s Fiscal
Consolidation, Public Policy Review, Vol. 9, No.4;
4. Shizimu Junko & S. Kiyotaka, 2015, Abenomics, Yen Depreciation, Trade
Deficit and Export Competitiveness, Rieti Disscusion Paper Series 15-E-020.
trong đó nguồn thu từ giai đoạn thứ nhất dùng
để trang trải chi phí an sinh xã hội ngày càng
tăng trong bối cảnh dân số Nhật Bản đang già đi.
Giai đoạn tăng thuế tiêu dùng lần thứ 2 có mục
tiêu giảm một nửa thâm hụt ngân sách để tiến tới
thặng dư vào năm 2020.
Trong giai đoạn đầu của lộ trình tăng thuế, mức
thuế tiêu dùng đã tăng từ 5% - 8% vào tháng 4/2014.
Đây là lần tăng đầu tiên của sắc thuế này kể từ năm
1997 với mục đích giúp Nhật Bản huy động thêm
8.000 tỷ Yên (81,42 tỷ USD) hàng năm. Tuy nhiên, để
giảm bớt tác động với nền kinh tế, Chính phủ Nhật
Bản cũng đồng thời công bố gói kích thích kinh tế
trị giá 5.000 tỷ Yên (50 tỷ USD). Theo đó, Chính phủ
hỗ trợ bằng tiền mặt cho các gia đình có thu nhập
thấp, hỗ trợ người dân mua nhà, tăng cường xây
dựng cơ sở hạ tầng... Chính phủ cũng sẽ giảm thuế
đối với các DN đầu tư trang thiết bị và tăng lương
cho nhân viên.
Giai đoạn tăng thuế tiêu dùng lần thứ hai tới
mức 10% dự kiến sẽ có hiệu lực từ tháng 4/2017.
Tuy nhiên, để làm dịu bớt những tác động của việc
tăng thuế đối với những người có thu nhập thấp,
Chính phủ sẽ không đưa các mặt hàng thực phẩm
vào diện bị tăng thuế tiêu dùng. Ngoài ra, quy định
mới sẽ giảm 2,51% thuế cho DN và mi n thuế đối
với các khoản tiền nhận từ cha mẹ hoặc ông bà khi
cưới xin hoặc để chăm sóc con nhỏ.
Chính phủ Nhật Bản cũng tuyên bố sẽ giảm thuế
thu nhập DN ít nhất 3,3% trong năm 2016, từ mức
hiện tại là 35,6% và đặt mục tiêu duy trì thuế này
ở mức từ 20-30% trong vòng vài năm tới. Theo ước
tính của Bộ Tài chính Nhật Bản, mức thuế thu nhập
DN của nước này hiện đang ở mức cao thứ hai trong
nhóm các nước G7, chỉ kém mức 40% của Mỹ, cao
hơn nhiều so với mức 24,2% của nước láng giềng
Hàn Quốc và 29,6% tại Đức là nền kinh tế lớn nhất
châu Âu.
Thứ ba,
sự chậm tr của chính sách tăng trưởng
sâu rộng.
Để đạt được mục tiêu thứ ba của Chiến lược
Abenomics đòi hỏi thực hiện những cải cách cấu
trúc nền kinh tế. Nhìn chung, chính sách cải cách
được đề ra trong Chiến lược Abenomics là hợp lý và
đúng hướng, ví dụ như khuyến khích phụ nữ trong
công việc, tăng cường vai trò của các cổ đông trong
quan hệ với công ty cổ phần và nhà đầu tư tổ chức
hoặc sự tập trung vào quá trình tự do hóa và bãi bỏ
các quy định nhằm khuyến khích đầu tư trong lĩnh
vực nông nghiệp và năng lượng. Thêm vào đó, trong
chiến lược tăng trưởng kinh tế mà chính quyền Abe
đưa ra đã đề cập đến tất cả những lĩnh vực cần ưu
1...,53,54,55,56,57,58,59,60,61,62 64,65,66,67,68,69,70,71,72,73,...86
Powered by FlippingBook