Tạp chí Tài chính kỳ 1 số tháng 5-2016 - page 64

66
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
nghịch đảo của độ lệch chuẩn của sự thay đổi chính
biến i.
Các nghiên cứu của Kaminsky, Lizondo và Reinhart
(1998), Kaminsky và Reinhart (1999),Ari (2012), Crespo-
Cuaresma và Slacik (2009) và Babecký và ctg (2014)
cũng đã chỉ ra các yếu tố tác động đến khả năng KHTT
dưới góc độ kinh tế vĩ mô gồm có bốn nhóm như sau:
(i) Nhóm các chỉ số thuộc khu vực bên ngoài; (ii) Nhóm
các chỉ số thuộc khu vực tài chính; (iii) Nhóm các chỉ số
thuộc khu vực công và khu vực sản xuất trong nước và
(iv) Nhóm các chỉ số về kinh tế toàn cầu.
Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả sử dụng
phương pháp nghiên cứu định lượng. Trước hết, để
xác định các giai đoạn xảy ra KHTT tại Việt Nam, tác
giả sử dụng phương pháp chỉ số EMP. Sau đó, để xác
định những yếu tố mạnh mẽ nhất tác động đến khả
năng KHTT tại Việt Nam, bài viết sử dụng mô hình
BMA được phát triển bởi Madigan và York (1995).
Xác định giai đoạn khủng hoảng tiền tệ tại Việt Nam
Để xác định các giai đoạn KHTT tại Việt Nam,
bài viết tính toán chỉ số EMP theo nghiên cứu của
Eichengreen, Rose và Wysplosz (1996) trong giai
đoạn từ tháng 1/2002 đến tháng 12/2014 dựa trên
nguồn số liệu của Thống kê Tài chính Quốc tế
(International Financial Statistics - IFS) của Quỹ Tiền
tệ Quốc tế. Theo đó, các giai đoạn KHTT (Currency
Crisis - CC) tại Việt Nam được ghi nhận như sau:
CCt = 1 nếu EMP ≥ µEMP + 1,5
CCt = 0 nếu ngược lại
Trong đó µEMP là trung bình của chỉ số EMP của
T
rên thế giới, các nghiên cứu về chủ đề khủng
hoảng tiền tệ (KHTT) rất nhiều, tiêu biểu như
các nghiên cứu của Kaminsky, Lizondo và
Reinhart (1998), Kaminsky và Reinhart (1999), Ari
(2012), Crespo-Cuaresma và Slacik (2009). Tại Việt
Nam từ sau 2008, chủ đề này đã bắt đầu được các
nhà nghiên cứu chú trọng, tiêu biểu như nghiên cứu
của Nguyễn Việt Hùng và Hà Quỳnh Hoa (2011),
Pham Thi Hoang Anh (2015). Tuy nhiên, các nghiên
cứu trên tại Việt Nam đều chưa sử dụng mô hình
BMA trong việc xác định các yếu tố tác động đến khả
năng KHTT. Nghiên cứu mang lại đóng góp mới về
phương pháp tiếp cận cho chủ đề này tại Việt Nam.
Cơ sở lý thuyết
Kaminsky, Lizondo và Reinhart (1998) cho rằng
KHTT là trạng thái mà ở đó một cuộc tấn công đầu cơ
vào đồng nội tệ dẫn đến sự thâm hụt phần lớn dự trữ
ngoại tệ và làmmất giá nhanh chóng đồng nội tệ. Các
nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới xác định các
giai đoạn KHTT qua chỉ số áp lực thị trường ngoại
hối (Exchange Market Pressure - EMP). Chỉ số EMP
lần đầu được giới thiệu bởi Girton và Roper (1977)
và được hoàn thiện qua nghiên cứu của Eichengreen,
Rose và Wysplosz (1996). Chỉ số EMP là bình quân
gia quyền của sự thay đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa
(NER), lãi suất thực (r), dự trữ ngoại hối (res).
Trong đó w
r
là trọng số tính cho thay đổi tương
ứng của các chỉ tiêu i (NER, r, res) được tính là giá trị
NGHIÊN CỨU CÁC YẾUTỐTÁC ĐỘNGĐẾNKHẢNĂNG
KHỦNGHOẢNGTIỀNTỆ TẠI VIỆT NAM
ThS. NGUYỄN THỊ MỸ PHƯỢNG
- Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
Bài viết này sử dụng mô hình Bayesian Model Averaging (BMA) để nghiên cứu các yếu tố
kinh tế vĩ mô tác động đến khả năng khủng hoảng tiền tệ tại Việt Nam trong giai đoạn từ
tháng 01/2002 đến tháng 12/2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy, 8 yếu tố tác động đến
khả năng khủng hoảng tiền tệ tại Việt Nam, gồm: chỉ số đổ vỡ khu vực ngân hàng, chênh
lệch lãi suất trong nước so với nước ngoài, chỉ số giá chứng khoán tổng hợp, độ lệch tỷ giá
thực, số nhân cung tiền M2, xuất khẩu, dự trữ ngoại hối và tiền gửi ngân hàng.
1...,54,55,56,57,58,59,60,61,62,63 65,66,67,68,69,70,71,72,73,74,...94
Powered by FlippingBook