66
sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các ngành
kinh tế - xã hội; những kết quả đã nghiên cứu được
chậm được đưa vào ứng dụng trong thực tiễn; trình
độ công nghệ còn thấp hơn rất nhiều so với các
nước; năng lực tạo ra công nghệ mới còn hạn chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
Một trong những nguyên nhân quan trọng gây
ra hạn chế này là nguồn vốn đầu tư cho hoạt động
khoa học và công nghệ hiện còn rất thấp. Các con số
thống kê chỉ ra rằng, đầu tư cho khoa học và công
nghệ của Việt Nam vào loại thấp nhất trong khu
vực. Cụ thể, tỷ lệ vốn đầu tư cho khoa học và công
nghệ nếu tính cả đầu tư của khu vực ngoài Nhà
nước mới chỉ ở mức khiêm tốn 0,6% GDP. Trong
khi đó, năm 2011 con số này của các nước EU đã là
1,95% GDP, Nhật Bản là 3,15% GDP, Trung Quốc là
1,31% GDP, Hoa Kỳ là 2,59% GDP, Hàn Quốc là gần
5% GDP. Nếu tính mức đầu tư cho khoa học và công
nghệ trên đầu người, thì Việt Nammới đạt khoảng 8
USD (năm 2013), trong khi của Trung Quốc khoảng
25 USD (năm 2013) và đặc biệt là Hàn Quốc khoảng
1.500 USD (năm 2013)…
Những giải pháp trọng tâm
Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới, đặc biệt việc tham gia các Hiệp định
thương mại tự do, Cộng đồng Kinh tế ASEAN đang
mở ra nhiều cơ hội cho nền khoa học – công nghệ
nước nhà tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Những
Đầu tư cho khoa học và công nghệ
Thời gian qua, để thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước đã
rất chú trọng đến phát triển khoa học và công nghệ,
cụ thể là đã dành một lượng vốn lớn đầu tư cho
phát triển khoa học và công nghệ. Thống kê cho
thấy, đầu tư cho khoa học và công nghệ trong vài
năm trở lại đây đã chiếm 2% tổng chi ngân sách,
tức là khoảng 0,5% GDP của cả nước. Nhờ nguồn
lực đầu tư nói trên, tiềm lực khoa học và công nghệ
đã được tăng cường, từ xây dựng hạ tầng cơ sở (cơ
quan làm việc, xưởng và trại thực nghiệm, phòng
thí nghiệm) cho đến sửa chữa nhỏ, tăng cường máy
móc thiết bị hiện đại. Công tác nghiên cứu khoa
học đã được cải thiện một bước. Cán bộ khoa học
và công nghệ đã được tham gia các khóa đào tạo,
nâng cao trình độ trong và ngoài nước, từ đó, đã
có được những đề tài khoa học và sản phẩm công
nghệ có giá trị, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, đến nay hoạt
động khoa học và công nghệ của nước ta còn rất
hạn chế. Trong đó, vấn đề đầu tư cho khoa học và
công nghệ chưa thật sự được chú trọng, nhất là đầu
tư cho các dự án khoa học có điều kiện nghiên cứu
và ứng dụng; Gắn kết với nhu cầu thực tiễn của các
ngành kinh tế quốc dân; Công tác nâng cao năng
lực công nghệ nội sinh còn nhiều bất cập. Điều này
đã khiến cho khoa học và công nghệ vẫn chưa thực
VAI TRÒ CỦA ĐẦUTƯPHÁT TRIỂNKHOAHỌC
CÔNGNGHỆ ĐỐI VỚI TĂNGTRƯỞNG KINHTẾ
ThS. VŨ TUẤN HÙNG
- Cục Hàng hải Việt Nam
Để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước rất chú trọng
đến phát triển khoa học và công nghệ. Thống kê cho thấy, đầu tư cho khoa học và công nghệ vài
năm trở lại đây đã chiếm 2% tổng chi ngân sách, tương đương khoảng 0,5% GDP của cả nước, nhờ
đó, tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường. Nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu đề ra
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, trong đó coi khoa học
và công nghệ là giải pháp chủ yếu cho đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, việc
đầu tư cho khoa học và công nghệ cần được quan tâm nhiều hơn trong thời gian tới.
•
Từ khóa: Khoa học công nghệ, hiện đại hóa đất nước, công nghiệp hóa, nguồn lực tài chính.
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC