TÀI CHÍNH -
Tháng 6/2016
69
năm; tăng tính bền vững của việc làm; bảo trợ xã hội;
bảo hiểm xã hội... Tuy nhiên, trong thời gian sử dụng
vốn ODA đảm bảo ASXH vẫn còn một số hạn chế
nhất định, đó là:
- Tỷ lệ giải ngân thấp dưới mức cam kết với các
nhà tài trợ và thấp hơn rất nhiều so với mức giải
ngân trung bình của khu vực. Các chương trình, dự
án đầu tư ODA thường bị kéo dài tiến độ xây dựng,
tỷ lệ giải ngân thấp, nên hiệu quả đầu tư không đảm
bảo và uy tín tiếp nhận vốn ODA giảm sút. Đến nay,
tổng số vốn ODA chưa giải ngân của các chương
trình, dự án đã ký kết chuyển tiếp từ thời kỳ 2011
– 2015 sang thời kỳ 2016 – 2020 còn khá lớn, gần 22
tỷ USD.
- Công tác kiểm tra, theo dõi, đánh giá, báo cáo sử
dụng vốn ODA đôi lúc chưa được thực hiện nghiêm
túc, còn để xảy ra một số trường hợp lãng phí, tham
nhũng, tiêu cực như vụ PMU 18, sập cầu Cần Thơ…
- Tổ chức quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp.
Năng lực và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán
bộ tham gia quản lý dự án còn hạn chế, nhất là ở các
địa phương. Nhân sự các ban quản lý dự án thường
không ổn định và kiêm nhiệm. Công tác đào tạo
quản lý dự án chưa thực hiện thường xuyên, có hệ
thống và bài bản.
- Các chỉ số đo lường về hiệu quả viện trợ đạt đến
mốc cần phải lưu ý: Hệ số ICOR thường vượt ngưỡng
5, trong khi đó, hệ số ICOR của các nước đang phát
triển thường dao động từ 3 – 4. Rõ ràng, với hệ ICOR
tương đối cao như vậy, việc tạo nguồn trả nợ trong
thời gian tới sẽ gặp khó khăn. Ngoài ra, hầu hết các
dự án đều kéo dài thời gian thực hiện từ 2 đến 3 năm
hoặc một vài dự án không có khả năng trả nợ.
Thứ ba,
hệ thống thể chế luật pháp, và chính sách
liên quan đến quản lý và sử dụng hiệu quả vốn ODA.
Có thể khẳng định, thể chế, chính sách về quản lý và
sử dụng vốn ODA ngày một đồng bộ, đảm bảo tính
minh bạch, thống nhất; đảm bảo tôn trọng nguyên tắc
hài hòa lợi ích giữa bên đi vay và bên cho vay, giữa
Chính phủ với người dân và doanh nghiệp; tạo thuận
lợi cho việc thu hút, quản lý và sử dụng hiệu quả vốn
ODA, nhằm thực hiện mục tiêu đảm bảo ASXH ở
Việt Nam đến năm 2020.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2013), Phát triển hệ thống ASXH ở Việt
Nam đến năm 2020;
2.
-
nhan-to-anh-huong-den-cac-khoan-vien-tro;
3. Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tổng quan công tác vận động, thu hút,
quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi thời kỳ 1993 - 2014 và định
hướng trong thời gian tới.
trình, dự án ODA chưa phù hợp với thực tế. Đồng
thời, trong cùng một lĩnh vực ASXH, việc thiếu hiểu
biết về nhà tài trợ dẫn đến đầu tư trùng lắp và áp
dụng các mô hình khác nhau, dẫn đến kém hiệu quả
và lãng phí nguồn lực của địa phương cũng như của
các nhà tài trợ.
Những tác động chủ quan
Thứ nhất,
về chính sách, chiến lược thu hút vốn
ODA cho lĩnh vực ASXH có căn cứ rõ ràng, khả thi,
gắn kết với chiến lược, chương trình phát triển kinh
tế -xã hội, ASXH.
Sau năm 2000, các chiến lược, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội đều có cơ cấu nguồn lực tài chính
hết sức rõ ràng, trong đó vốn ODA luôn được coi là
nguồn lực quan trọng. Đi kèm với chiến lược truyền
thông, sự phối hợp với các nhà đầu tư, việc xây dựng
và ban hành các chính sách, chiến lược thu hút vốn
ODA cũng bám sát yêu cầu của các nhà tài trợ và đảm
bảo gắn kết với chiến lược, chương trình phát triển
kinh tế - xã hội, chương trình bảo đảm ASXH.
Kết quả cho thấy, các nhà tài trợ đánh giá cao
định hướng của Chính phủ Việt Nam là rất rõ ràng,
chặt chẽ, hiệu quả trong thu hút vốn ODA hàng năm
và cho cả giai đoạn 5 năm, 10 năm. Trong đó, đề án
“Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn
ODA và các khoản vay vốn ưu đãi của các nhà tài trợ
nước ngoài thời kỳ 2016-2020” của Chính phủ, được
các nhà tài trợ rất quan tâm vì phù hợp với yêu cầu
của các nhà tài trợ, rõ ràng, minh bạch và gắn kết với
các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế, các
giải pháp được xác định rõ ràng, cụ thể được cho là
sẽ mang lại thuận lợi cho công tác thu hút vốn ODA
của các nhà tài trợ trong thời gian tới.
Tuy nhiên, việc lồng ghép các chương trình và
dự án của Chính phủ với các chương trình, dự án
ODA có những nội dung gần nhau như: xóa đói
giảm nghèo, giao thông nông thôn, nước sạch nông
thôn… gây ra hiện tượng trùng lặp, hạn chế về công
tác triển khai và hiệu quả. Thực tế, trên cùng một địa
bàn có nhiều công trình cùng một lĩnh vực do nhiều
nguồn vốn tài trợ, song chính quyền địa phương
không đủ năng lực quản lý và duy trì hoạt động của
các công trình này một cách có hiệu quả để phục vụ
người dân.
Thứ hai,
hiệu quả việc sử dụng vốn ODA.
Các khoản vốn ODAmà Việt Nam đã ký kết trong
hơn 20 năm qua, bình quân khoảng 3,5 tỷ USD/năm
là một nguồn tài chính đáng kể, đã được sử dụng
có hiệu quả, nhất là trong lĩnh vực ASXH như: Giải
quyết việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động/năm;
đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn/